Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Quan điểm của Người là kim chỉ nam để Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy và nâng cao năng lực lãnh đạo trên mặt trận văn hóa. Trong kỷ nguyên mới của công nghệ cao và toàn cầu hóa sâu rộng, văn hóa càng phải phát huy vai trò là sức mạnh nội sinh cho phát triển nhanh, bền vững. Trong đó xây dựng ngành công nghiệp văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp bách.
Dấu ấn Đổi mới của Đảng
Những thập niên cuối thế kỷ XX, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới, công nghiệp văn hóa (CNVH) dần hình thành. Tại Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn hóa được UNESCO tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) tháng 4/1998, thuật ngữ công nghiệp văn hóa chính thức được công bố và thông qua bởi đại biểu của gần 200 quốc gia. Theo đó, CNVH được định nghĩa là sự tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo, kỹ năng, sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hóa xã hội. Hai yếu tố công nghiệp và sáng tạo, tạo nên đặc trưng của ngành công nghiệp này.
Cùng năm này, trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa,… văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”. Tiếp tục tinh thần đổi mới, tại Kết luận Hội nghị Trung ương 10, khóa IX (năm 2004), Đảng khẳng định các hoạt động văn hóa không chỉ mang tính chất sự nghiệp mà còn mang tính kinh doanh với sự tham gia của các doanh nghiệp văn hóa; thị trường văn hóa bước đầu được thừa nhận với những sản phẩm văn hóa được lưu thông theo cơ chế thị trường.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ban hành Nghị quyết chuyên đề về văn hóa. Đó là Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết xác định phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa: “Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới”. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa khi khẳng định sự cần thiết phải xây dựng ngành CNVH ở Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên khái niệm “công nghiệp văn hóa” được chính thức nêu ra trong văn kiện của Đảng.
Quan điểm “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa” được coi là một trong những khâu đột phá trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong Đại hội lần thứ XII (năm 2016) và Đại hội lần thứ XIII (năm 2021) của Đảng.
Có thể thấy, lý luận và định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển công nghiệp văn hóa không ngừng được đổi mới, tiếp thu tinh thần của thời đại dựa trên điều kiện thực tế Việt Nam. Từ chỗ chỉ đề cập gián tiếp đến tiềm năng kinh tế của văn hóa, đến nay, CNVH đã trở thành một mục tiêu chiến lược rõ ràng, gắn liền với phát triển bền vững đất nước. Đảng ta đã xác định rõ vai trò của CNVH không chỉ trong việc đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân mà còn góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia, gia tăng sức mạnh mềm của Việt Nam trên trường quốc tế. Đây chính là nền tảng để phát triển văn hóa thành một ngành kinh tế quan trọng trong tương lai.

khán giả tham gia. Ảnh: nhandan.vn
Từ thực tiễn cách mạng, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Mọi thành tựu văn hóa đều bắt đầu từ việc kiên định đường lối đúng đắn, tôn trọng quy luật văn hóa và đặt con người ở trung tâm. Khi đường lối đúng, cơ chế phù hợp, thì sức sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa được giải phóng, sức mạnh của cộng đồng được khơi dậy và bừng sáng”.
Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, ngày 8/9/2016, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển ngành CNVH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, chính thức xác nhận các ngành CNVH trên bản đồ kinh tế Việt Nam. Chiến lược với tầm nhìn đến năm 2030, không chỉ tìm cách giải phóng và khai thác tiềm năng kinh tế của các nguồn lực văn hóa và tài năng sáng tạo, đóng góp tăng trưởng 7% GDP vào năm 2030, mang lại nhiều việc làm cho người lao động mà còn hướng tới các mục tiêu có tính phát triển bền vững như thúc đẩy hội nhập xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần người dân và tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, thương hiệu địa phương và quốc gia ra thị trường khu vực và thế giới.
Thực tiễn sinh động tại Quảng Ninh
Quảng Ninh được ví như một Việt Nam thu nhỏ. Văn hóa Quảng Ninh là sự hội tụ và giao thoa của những giá trị đặc trưng. Đó là văn hóa biển, văn hóa Phật giáo Trúc Lâm, văn hóa công nhân mỏ và văn hóa các dân tộc thiểu số. Quảng Ninh còn được coi là cái nôi văn hóa cổ, là nơi lưu giữ dấu tích của ba nền văn hóa tiền sử kế tiếp nhau qua hàng nghìn năm: văn hóa Soi Nhụ, văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long.

Những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống đã được con người Quảng Ninh gìn giữ trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc còn tồn tại tới ngày nay với 641 di tích và 362 di sản văn hóa phi vật thể. Quảng Ninh cũng sở hữu 13 bảo vật quốc gia; có 2 Nghệ nhân Nhân dân, 36 Nghệ nhân Ưu tú và 75 Nghệ nhân dân gian; 4 Nghệ sĩ Nhân dân, 18 Nghệ sĩ Ưu tú và 187 Nghệ sĩ Vùng mỏ. Những yếu tố văn hóa, con người trên mở ra cơ hội lớn để Quảng Ninh trở thành trung tâm phát triển các ngành CNVH trong đó đặc biệt là du lịch văn hóa và nghệ thuật biểu diễn.
Bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 9/3/2018 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”. Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 9/3/2018 định vị “Văn hóa Quảng Ninh là sự kết hợp hài hòa giữa những tinh hoa văn hóa truyền thống được chắt lọc từ nhiều vùng miền trong cả nước và văn hóa hiện đại ra đời trong cuộc sống công nghiệp”; đặt mục tiêu giữ gìn và phát huy bền vững bản sắc văn hóa; các giá tri di sản thiên nhiên, di sản văn hóa; sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; xây dựng con người Quảng Ninh với các đặc trưng "Năng động, Sáng tạo, Hào sảng, Lành mạnh, Văn minh, Thân thiện". Đặc biệt, với mục tiêu “Phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển”, Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 9/3/2018 không coi văn hóa là lĩnh vực phi sản xuất, chỉ tiêu tốn ngân sách, thiên về tinh thần, giáo dục, giải trí mà thừa nhận văn hóa có khả năng tạo ra giá trị kinh tế, đóng góp trực tiếp vào GRDP.

văn hóa công nhân mỏ, văn hóa dân tộc thiểu số.
Sau 5 năm triển khai Nghị quyết 11/NQ-TU ngày 9/3/2018, BCH Đảng bộ tỉnh đánh giá “Công nghiệp văn hóa đã bước đầu được hình thành, xây dựng được một số sản phẩm văn hóa đặc trưng”. Song thẳng thắn nhìn nhận việc “phát triển công nghiệp văn hóa đã được triển khai, song chưa đạt mục tiêu đề ra”. Trên cơ sở đó, BCH Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết 17/NQ-TU ngày 30/10/2023 xác định “Phát triển công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức sản xuất ở trình độ cao” là một trong các khâu đột phá...; phát triển con người Quảng Ninh toàn diện với các đặc trưng “Bản lĩnh, Tự cường, Kỷ cương, Đoàn kết, Nghĩa tình, Hào sảng, Sáng tạo, Văn minh” phù hợp với xu thế thời đại... để văn hóa, con người Quảng Ninh thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh, bền vững.

Bên cạnh đó, CNVH cũng được xác định là ngành công nghiệp xanh, khẳng định quyết tâm chuyển đổi mô hình phát triển từ “nâu” sang “xanh” của Quảng Ninh, phát triển xanh, bền vững dựa vào ba trụ cột: Thiên nhiên, con người và văn hóa, kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết xác định trong số 12 ngành công nghiệp văn hóa, Quảng Ninh ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, sản phẩm văn hóa chủ lực có trọng tâm, trọng điểm mà địa phương có tiềm năng, lợi thế như: du lịch văn hóa, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, điện ảnh, thời trang.
Chỉ tính riêng trong du lịch, Quảng Ninh được phát triển được hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống đặc sắc như: Lễ hội đền Cửa Ông, Lễ hội xuân Yên Tử, Lễ hội Tiên Công, Lễ hội đình Trà Cổ, Lễ hội đình Quan Lạn... sáng tạo nhiều lễ hội mới mang thương hiệu Quảng Ninh như: Lễ hội Carnaval, Lễ hội hoa Anh đào - Mai vàng Yên Tử, Lễ hội hoa sở, Lễ hội trà hoa vàng… Du lịch văn hóa tâm linh là một trong những động lực tăng trưởng chính cho du lịch toàn tỉnh trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị của Khu di tích lịch sử nhà Trần, quần thể di tích - danh thắng Yên Tử, chùa Ba Vàng, đền Cửa Ông, chùa Cái Bầu... du lịch làng nghề thủ công truyền thống như: Làng nghề gốm sứ; nghề đan ngư cụ, đóng tàu vỏ gỗ, nuôi cấy ngọc trai...

Các hoạt động bảo tồn, giữ gìn, phục dựng và lưu giữ di sản văn hóa gắn với khai thác các loại hình du lịch đã tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù như: “Một ngày làm ngư dân”, “Khám phá Quan Lạn”, “Then tour”, “Hành trình theo dấu chân Phật hoàng tại Yên Tử”... được du khách yêu thích. Đồng thời, chính các sản phẩm du lịch văn hóa ngày càng có những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm cho người dân bản địa.
Văn hóa vốn là niềm tự hào, là trách nhiệm gìn giữ, trao truyền từ thế hệ trước đến thế hệ sau, qua du lịch trở thành vốn quý mà cha ông để lại cho con cháu. Anh Bàn Văn Vy, Trưởng thôn Khe Phương, xã Kỳ Thượng chia sẻ: Từ khi có mô hình du lịch cộng đồng Am Váp Farm, bà con tự hào khi mặc trang phục truyền thống. Chúng tôi mang những điệu múa chuông, nhảy sạp, những bài dân ca của dân tộc để biểu diễn phục vụ du khách. Chúng tôi không chỉ xây dựng được mô hình nhà cộng đồng truyền thống mà từ du lịch đã có kinh phí để hỗ trợ bảo tồn những ngôi nhà cổ; biến nhà cổ trở thành điểm tham quan. Thôn Khe Phương nghèo nay đã thay da đổi thịt. Đáng vui mừng nhất là người dân ai cũng hào hứng chung tay giữ gìn văn hóa của dân tộc. Có ai mà nghĩ được lại kiếm được tiền từ văn hóa như vậy đâu”.
Tỉnh đã huy động hàng nghìn tỷ đồng, bao gồm cả nguồn xã hội hoá để bảo tồn, phục dựng các giá trị di sản văn hoá. Cùng với những công trình “nghìn tỷ” như cụm công trình Quảng trường 30/10, Bảo tàng - Thư viện, Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh; Khu Liên hợp thể thao tỉnh... thu hút các doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư hạ tầng để thúc đẩy CNVH bứt phá. Tập đoàn Sun Group với Quảng trường Sun Carnival, Ngọn Hải Đăng; Tập đoàn Bim Group với Quảng trường Marina; Công ty CP Phát triển Tùng Lâm với Trung tâm văn hóa Trúc Lâm Yên Tử… góp phần đưa Quảng Ninh trở thành điểm đến cho các sự kiện văn hóa - nghệ thuật tầm cỡ như: Liên hoan Xiếc, Lễ hội âm nhạc quốc tế; show diễn thời trang của các NTK nổi tiếng trong và ngoài nước, show diễn của các nghệ sĩ V-POP hàng đầu Việt Nam như: Mỹ Tâm, Sơn Tùng M-TP… được du khách đặc biệt là giới trẻ yêu thích.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng tạo cơ chế, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các sản phẩm trên cở sở khai thác văn hóa địa phương với phương châm Quảng Ninh hóa các giá trị quốc tế và quốc tế hóa các giá trị văn hóa của Quảng Ninh. Tiêu biểu là chuỗi sân khấu âm nhạc Thanh âm Bên thông, Đêm nhạc dưới Trăng, Hát giữa Kỳ quan… thu hút đông đảo du khách đến Quảng Ninh đồng thời nâng cao mức độ hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật cho người dân địa phương.
Với quan điểm văn hóa địa phương là chất liệu vô giá để sáng tạo sản phẩm du lịch văn hóa, thời gian qua, Quảng Ninh đã xuất hiện nhiều show diễn tiềm năng trên du thuyền và trong hang động như: “Vũ điệu Biển Khơi”, “Đi tìm dấu ngọc”… Ông Nguyễn Việt Dũng, Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh khẳng định: Quan điểm xuyên suốt của chúng tôi là "Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối". Văn hóa phải được coi là gốc rễ để giữ gìn bản sắc, nuôi dưỡng tinh thần và tạo nguồn lực nội sinh. Trong khi đó, du lịch chính là cầu nối để lan tỏa văn hóa, quảng bá hình ảnh Quảng Ninh ra thế giới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội”.

Ngày 12/7/2025, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới của nhân loại. Như vậy, cùng với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà, Quảng Ninh đồng sở hữu tới 2/9 di sản thế giới của Việt Nam. Đây là nguồn lực chiến lược để tỉnh phát triển CNVH, vừa khẳng định thương hiệu và vị thế, vừa tạo chất liệu cho sáng tạo sản phẩm văn hóa - du lịch, đồng thời mở rộng không gian hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên phát triển mới.
Ông Giorgio Aliberti, nguyên Đại sứ, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam đánh giá: “Lâu nay khi nhắc tới Việt Nam, Quảng Ninh du khách quốc tế sẽ nhớ ngay tới Vịnh Hạ Long còn Yên Tử mới có ít người biết đến. Tôi tin rằng với việc ghi danh của UNESCO, sẽ ngày càng có nhiều du khách nhất là khách Châu Âu muốn đến Quảng Ninh hơn. Và với chúng tôi, Quảng Ninh không chỉ là vùng đất có thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn đại diện cho một đất nước Việt Nam với văn hóa giàu có và truyền thống lâu đời”.
Phát huy năng lực mềm trong kỷ nguyên mới
Tổng Bí thư Tô Lâm nói: "Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đô thị thông minh… đang định hình những chuẩn mực mới; cạnh tranh chiến lược, bùng nổ thông tin, "đấu tranh trên không gian mạng" diễn ra gay gắt; sự thâm nhập của các sản phẩm văn hóa ngoại lai đa dạng, nhiều chiều. Trong bối cảnh đó, văn hóa càng phải đi trước một bước, soi đường, dẫn dắt, bồi đắp bản lĩnh, củng cố niềm tin, hình thành năng lực mềm quốc gia…"
Tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí Thư Tô Lâm đã được tỉnh Quảng Ninh quán triệt trong định hướng phát triển nhiệm kỳ 2025 - 2030. Tỉnh xác định “phát triển nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh, gắn với xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản, kinh tế đêm” là một trong ba khâu đột phá cần tập trung triển khai. Tỉnh đặt mục tiêu phát triển văn học nghệ thuật, tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, sản phẩm văn hóa chủ lực có trọng tâm, trọng điểm gắn với bảo tồn và phát huy vai trò của các di sản, di tích giá trị văn hóa truyền thống; tập trung phát triển vịnh Hạ Long trở thành “Vịnh Sáng tạo” góp phần nâng cao giá trị Di sản - Kỳ quan; phát triển du lịch khu vực vịnh Bái Tử Long, khu du lịch quốc gia Trà Cổ; xây dựng khu du lịch quốc gia Yên Tử, khu du lịch quốc gia Vân Đồn - Cô Tô; trong đó xây dựng đặc khu Vân Đồn trở thành trung tâm công nghiệp giải trí, công nghiệp văn hóa có casino, du lịch biển đảo cao cấp, dịch vụ tổng hợp đẳng cấp quốc tế; triển khai Khu dịch vụ du lịch phức hợp cao cấp tại Khu kinh tế Vân Đồn; phát triển theo mô hình đô thị thông minh, trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực. Quảng Ninh phấn đấu đến năm 2030 đóng góp của CNVH vào GRDP cao hơn mức bình quân chung của cả nước.

Nhận định về giá trị của văn hóa trong kỷ nguyên mới, PGS.TS. Đặng Văn Bài, nguyên Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho rằng: “Từ thời kỳ bao cấp chuyển sang kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đặt kinh tế và văn hóa cân bằng, hài hòa với nhau. Chúng ta quan niệm văn hóa không chỉ có giá trị về mặt tinh thần mà cũng là một nhân tố tạo ra động lực phát triển. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu hơn, chúng ta học tập kinh nghiệm, tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài nhưng đồng thời cũng có tinh thần đóng góp bằng di sản văn hóa Việt Nam cho kho tàng di sản văn hóa của nhân loại. Đó là tư duy mới. Rất mạnh mẽ và chủ động”. PGS. TS. Đặng Văn Bài nhấn mạnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tài nguyên văn hóa, sức sáng tạo và tư duy đổi mới, Quảng Ninh hoàn toàn có khả năng trở thành một trung tâm du lịch quốc tế, một thành phố trực thuộc Trung ương giàu mạnh, văn minh, hiện đại và hạnh phúc.