Nói đến Trường Sơn là nói đến biểu tượng của ý chí quyết thắng và khí phách anh hùng của người Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mỗi mét đường Trường Sơn đã thấm đượm mồ hôi, xương máu của biết bao anh hùng, liệt sĩ. Thật vinh dự, tự hào, chúng tôi - Đội văn nghệ xung kích Đất mỏ Quảng Ninh đã được cống hiến một phần nhỏ bé của mình vào con đường huyền thoại đó.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, tháng 11/1968, tỉnh Quảng Ninh đã thành lập Đội văn nghệ xung kích Đất mỏ Quảng Ninh đi phục vụ chiến trường B2, B3, Đoàn 559. Những nghệ sĩ Quảng Ninh đã biểu diễn phục vụ bộ đội, dân công, thanh niên xung phong ở nhiều nơi dọc đường Trường Sơn: Trên điểm cao, dưới hầm sâu, diễn bên đường tiễn các chiến sĩ hành quân...

Từ hiệu quả chuyến đi đó, đầu năm 1971, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục cử Đội văn nghệ xung kích Đất mỏ Quảng Ninh thứ hai đi phục vụ chiến trường B, C, K, Đoàn 559. Đoàn gồm 16 nghệ sĩ, diễn viên, gồm: Nhật Chinh (Đội trưởng), Đào Xân Phạ (Đội phó), Minh Huệ, Quang Thọ, Ngọc Ẩn, Trần Thị Khánh, Trần Bường, Vũ Kim Chung, Đặng Bích Hạnh, Nguyễn Thị Thu Chung, Thúy Hải, Nguyễn Duy Lăng, Sĩ Khu, Vũ Thị Kim Liên, Phạm Hồng Vân và tôi - Tất Thọ.
Hơn 50 năm đã qua, giờ nhớ lại, tôi không thể quên Trường Sơn với những trận mưa rừng ào ào, dữ dội. Lại có những trận mưa cứ rả rích hết đêm ngày. Mưa thối đất, thối cỏ, quần áo lúc nào cũng ẩm ướt, nhớp nháp. Nói đến Trường Sơn là không quên nói đến ruồi, muỗi, vắt.. Muỗi nhiều vô kể mà có những con muỗi rất to. Những nốt chúng đốt đến tận ngày hôm sau vẫn chưa hết ngứa, hết đau. Vắt thì nào vắt xanh, vắt vàng, vắt đen, chỉ cần đặt chân xuống là hàng chục con bám chặt dứt mãi không ra. Nhưng những thứ đó vẫn không ghê gớm, man rợ và tàn ác bằng đế quốc Mỹ bấy giờ. Suốt ngày, suốt đêm, Trường Sơn không lúc nào là ngớt tiếng máy bay. Chỉ cần phơi một chiếc áo sáng màu là ngay lập tức chiếc áo trở thành tọa độ mục tiêu của máy bay phản lực. Ở những quả đồi bị chúng bỏ bom, hôm qua còn tươi xanh, hôm sau đã ngổn ngang những thân cây bị phạt ngang tước dọc, đất đá bị xới tung đỏ quạch. “Trời nắng thì bổ nhào, mưa rào thì tọa độ”, nhoằng một cái chưa nghe thấy máy bay đã nghe tiếng bom rơi rồi…
Có kể ra những điều này mới thấy hết được cái mức ác liệt của chiến tranh và sự hy sinh gian khổ của các chiến sĩ ta ở Trường Sơn phải chịu đựng hết năm này sang năm khác cũng như hơn một năm trời mà Đội văn công xung kích Vùng mỏ chúng tôi đã phải trải qua. Chúng tôi hành quân hoàn toàn là “cuốc bộ”. Nói vậy không có nghĩa là chiến trường thiếu xe hoặc các thủ trưởng không cho xe để đội đi mà có đi bộ như vậy, chúng tôi mới đi đến được khắp những nẻo rừng mà bộ đội đóng quân.
Sáng mở mắt ra có khi chưa kịp ăn sáng đã có lệnh hành quân. Lỉnh kỉnh đủ thứ nào chăn màn, quần áo, tăng võng, vải mưa, đạo cụ, phục trang... Ba lô người nào cũng đầy ắp nặng trĩu. Thúy Hải, Bích Hạnh, cả Kim Chung dáng tiểu thư vậy mà ngày nào cũng phải vác nặng, mấy hôm đầu sưng tếu cả hai vai. Thấy vậy cánh nam giới định san bớt và mang hộ nhưng chị em không chịu. Vất vả nhân lên những hôm hành quân gặp trời mưa. Đã mưa là đường lại trơn như đổ mỡ và muỗi vắt lại nhiều. Vắt chui vào tóc Sĩ Khu, bám vào thắt lưng Đào Phạ. Có hôm Quang Thọ (nay là Nghệ sĩ Nhân dân) thấy áo ngực mình ướt đẫm máu mới biết là vừa bị vắt cắn. Có lần Minh Huệ (sau được phong tặng Nghệ sĩ Nhân dân, đã mất) rơi nắm cơm mà không dám nhặt vì nắm cơm vừa rơi xuống vắt đã bám đầy. Ở đội, Trần Bường và Thúy Hải là hay bị vắt cắn nhất (vì người thấp lại… hay đi chậm).

Nhớ những hôm vượt sông, vượt suối. Những con suối Trường Sơn thoắt cái đã đầy ắp và nước thì cứ đổ ào ào như thác. Chẳng lẽ quay lại?. Không! nhất định không vì phía trước, bờ bên kia là cả một đơn vị bộ đội đang chờ mình. Thế là anh em chúng tôi tìm đủ mọi cách vượt qua. Lúc thì quằng dây sang, chị em cứ bám chặt vào dây mà vượt, lúc thì ba bốn anh em kèm một chị, nom cứ như những tổ kiến càng. Nhiều lúc qua rồi nhìn lại con suối hay đêm về nằm nghĩ mới thấy mình thật táo gan bạo phổi.
Hơn một năm ở Trường Sơn không biết chúng tôi đã vượt qua bao nhiêu là hố bom, bao nhiêu là trọng điểm. Có hôm địch vừa đánh xong chúng tôi hành quân vượt qua ngay. Những hố bom sâu hoắm, khói lên nghi ngút khét lẹt. Lại có hôm chúng tôi vừa qua được mấy bước thì bom dội ngay đằng sau, đất đá cành cây bay túi bụi, bắn cả vào người, vào mặt đau điếng. Khổ nhất trong các buổi hành quân là những hôm chị em đến tháng, chỉ cần nhìn nét mặt đổi khác cũng đã biết cái bứt rứt, khó chịu và mệt nhọc của chị em ra sao rồi.
Ở ngoài Bắc, dù buổi biểu diễn nào khẩn trương đến đâu, vất vả đến mấy thì việc ăn ngủ của chúng tôi vẫn giữ được bình thường, nhưng ở trong này thì bị đảo lộn hết. Có khi ăn cơm chưa xong là biểu diễn hoặc hành quân ngay. Còn thường những buổi hành quân phải đến tối mịt mới tới nơi và mới được ăn cơm chiều. Có lần cả ngày mới được một bữa cơm. Gạo trong này thì nhiều ăn đến no, lại không phải độn mỳ, độn ngô gì cả (ưu tiên chiến trường mà) nhưng thức ăn thì thất thường và hiếm. Có một lần cả đội tổ chức đi câu, câu cả buổi sáng mới được 7 con cá nhỉnh hơn ngón tay. Chúng tôi nấu thành một nồi canh riêu (nấu với lá bứa) và chia đều cho 16 người. Hôm thì chỉ một mớ rau tàu bay, hôm thì mấy đọn măng, hoặc nắm lá sắn. Những bữa như vậy không khí thật là vui.

Thường đội đi đến đâu là các chiến sĩ lại nhường nhà, nhường lán cho chúng tôi ở. Những cái sàn ken tạm bằng nứa hoặc những mảnh tre ghép nằm đau ê ẩm cả người. Cũng có nhiều khi đơn vị mới đến chưa làm kịp nhà nên tất cả chiến sĩ và chúng tôi đều mắc tăng võng ngủ giữa rừng. Có lúc đang ngủ thì có lệnh hành quân, vừa đi vừa ngủ gật. Nhưng càng khó khăn gian khổ, càng thiếu thốn bao nhiêu thì đội vẫn quyết tâm bám sát bộ đội mà phục vụ. Có lần, một đơn vị chỉ dăm ba người đóng tít mãi trong rừng sâu, cách chỗ đội hai ba ngày đường, dù không phải là hướng chính của đội, nhưng khi biết đơn vị đó rất khao khát được thưởng thức văn nghệ, lập tức đội điện về Bộ Tư lệnh xin được đi phục vụ ngay. Vừa leo tới đỉnh dốc, mồ hôi nhễ nhại gặp một tổ công binh đang phá đá làm đường, Bích Hạnh đã tươi cười: “Em chào các anh!”. “Vâng chào các đồng chí!”. Một chiến sĩ ranh mãnh hỏi: “Xinh thế, các đồng chí là văn công phải không?”. “Vâng ạ!”. “Vậy thì hát cho chúng tôi nghe đi!”. Thế là Hạnh lại cất tiếng hát, tuy không phải là diễn viên ca múa nhưng Hạnh cũng hát, hát hết bài này đến bài khác.
Một đơn vị đã nhận lệnh hành quân vào mặt trận phía trong, nhưng được tin có văn công, đơn vị đó đã xin và được phép ở lại một ngày để đón và xem văn công. Hôm đó trời mưa như trút nước, chúng tôi vẫn khẩn trương hành quân. Đến một khúc sông thì tất cả phải đứng sững lại. Nhìn dòng sông rộng, nước chảy xiết, anh em chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Làm thế nào bây giờ? Bằng mọi cách phải vượt qua thôi! Hồng Vân, Quang Thọ, Nhật Chinh cởi phăng quần áo nhảy xuống sông dò mực nước rồi quay lại hướng dẫn mọi người trải áo mưa ra, bỏ hết quần áo, đạo cụ, nhạc cụ vào rồi buộc túm thật chặt. Nam giới qua trước, mang theo túi đồ, sau đó quay lại cứ ba nam kèm một nữ. Bích Hạnh được dìu qua trước, vừa đến giữa dòng đã bị dòng nước cuốn đi. Tôi và Hồng Vân cố sức kéo Hạnh lại mà không sao kéo nổi. Chỉ trong nháy mắt Hạnh đã bị hút vào dòng nước xoáy. Duy Lăng, Quang Thọ từ trên bờ nhảy bổ xuống. Rất may, chỉ chậm một chút nữa thì Hạnh đã bị va đầu vào tảng đá ngầm rồi. Chập tối thì đến được đơn vị, đồng chí chỉ huy trưởng nắm tay từng người cảm động. Đêm hôm ấy chúng tôi tổ chức biểu diễn ngay. Bích Hạnh hát vẫn say sưa, chương trình không thiếu một tiết mục nào.
Lại có lần chúng tôi đến phục vụ một đơn vị mà họ cũng vừa dọn đến, nhà cửa chưa có, các chiến sĩ mắc tăng võng nằm rải rác quanh dưới tán lá rừng. Nhìn thấy chúng tôi, nhiều đồng chí hét lên “a! văn công, văn công đến rồi các cậu ơi!”. Rồi họ quay xúm lại quanh chúng tôi. Chỉ huy đơn vị ái ngại: “Các đồng chí đến với chúng tôi làm tôi rất cảm động và biết ơn. Nhưng thú thật, hiện nay đơn vị chưa làm được nhà, thức ăn cũng vừa hết”. “Đừng ngại, các anh ạ! Các anh coi chúng em như người nhà thôi” - Kim Chung vừa cười vừa nói. Thế rồi, tất cả đội cùng với các chiến sĩ xắn tay làm lán, cũng chỉ đủ diện tích cho chỗ diễn, còn các chiến sĩ thì khoác áo mưa đứng xem. Mưa to, nước mưa tràn vào khiến “sân khấu” trở thành ruộng ngập nước nhưng chúng tôi vẫn hát rất say sưa, khán giả vẫn mê mải, nhiệt tình. Thường những buổi biểu diễn như vậy rất cảm động.
Cảm động nhất là các buổi biểu diễn cho các thương binh xem. Chúng tôi thường đến từng giường bệnh để hát. Bài hát nào cũng được các đồng chí yêu cầu hát đi hát lại. Có đồng chí bị mất một tay, một chân, khi hoan hô thì một tay lành vỗ vào đùi còn lại. Có đồng chí mắt không thể nhìn thấy nữa nhưng gương mặt vẫn tươi lên dõi nghe từng lời của bài hát. Chúng tôi thường nhắc nhở nhau, đến với chiến trường, đến với các chiến sĩ phải đem hết nhiệt tình, nhưng những tiết mục của mình cũng phải thường xuyên được nâng cao lên, vì dù sao đội cũng là một đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, thay mặt cho các nghệ sĩ của tỉnh Quảng Ninh.
Trường Sơn thật là nhiều gian khổ thử thách nhưng không phải Trường Sơn không có những hấp dẫn. Một mỏm đồi cao ngất, màu cây xanh biếc, làn mây trắng quấn quanh như dải lụa há chẳng nên thơ sao? Nhiều hôm mây sà xuống chân đồi, phủ lên dòng suối, lan khắp mặt đường, quẩn quanh chân, như nâng bước ta đi. Ở đây có những khu rừng săng lẻ rất đẹp. Cây săng lẻ màu trắng, ít cành nhỏ, chỉ một dáng thẳng cao vút, tán che kín cả bầu trời. Ở Trường Sơn có những con suối lại là đường ô tô chạy làm cho giặc lái Mỹ chịu chết không tài nào phát hiện ra. Xe chạy dưới suối nước bắn tung trắng xóa. Những cây cầu vắt ngang qua suối mới đẹp làm sao. Nhiều hôm vừa qua một cánh rừng trước mắt hiện ra một thung lũng, những mỏm núi nhấp nhô nối tiếp nhau mượt mà như một tấm thảm nhung. Có lần vừa qua một dốc núi cao, gặp một cửa rừng, gió mát quá, không ai bảo ai, tất cả chúng tôi dừng lại, người nào cũng bỏ mũ ra mà đón lấy cơn gió. Có tiếng ai phía sau: “Ôi! Sao mà nhớ cửa lò, nhớ mỏ đến thế”. Tôi quay lại thì ra là anh Quang Thọ. Cũng chả riêng gì Quang Thọ mà tất cả đều nói lên điều đó. Những lúc như vậy chúng tôi thấy nhớ đất mỏ vô cùng.
Trường Sơn nhiều cái đẹp, cái thú vị, cái nên thơ. Nhưng đẹp nhất, quý giá nhất vẫn là những con người của Trường Sơn. Mưa gió, đèo cao, dốc thẳm, muỗi vắt, bom đạn vậy mà không có ai nao núng, chùn bước. Những con đường của ta vẫn mở, xe ta vẫn đầy ắp hàng chạy thẳng vào tuyến trong. Ở cánh rừng nào, khe suối nào cũng có tiếng cười, tiếng nói, cũng có tiếng hát tiếng hò, tiếng mìn phá đá, tiếng búa tiếng đe. Đi đến đâu chúng tôi cũng gặp những tập thể anh hùng, con người anh hùng, họ là những con người dũng cảm, ngoan cường, lập nên bao chiến công hiển hách, nhưng cuộc sống của họ thì lại thật bình dị và lúc nào cũng rất sôi nổi và vui tươi. Có lần chúng tôi đi qua một trọng điểm, địch dội bom B52, khói bom còn nghi ngút, chúng tôi cố sức chạy nhanh qua khỏi chỗ nguy hiểm nhưng chạy đến đỉnh đồi thì thấy chiếc xe máy gạt đang bình thản làm việc. Đồng chí lái máy còn rất trẻ nở nụ cười tươi và giơ tay vẫy chào. Cả đội nhìn thấy thật cảm phục, ngưỡng mộ lòng dũng cảm của anh. Chúng tôi đã đến đại đội công binh, chốt trên cao điểm X. Bom đạn ở đây nhiều đến mức, hầu hết đơn vị đều bị sức ép người nhiều nhất thì 7 lần, người ít thì 2 lần, nhưng tháng này sang tháng khác họ vẫn tình nguyện ở lại cao điểm. Dứt tiếng bom là tiếng máy xúc, tiếng cuốc, tiếng xẻng xen tiếng hát. Đúng là ở Trường Sơn mọi thứ sắt thép đều tan chảy, chỉ có con người là trụ vững.
Những con người, sự việc như vậy trên dải Trường Sơn nhiều lắm tôi không thể nào kể hết được. Cảm động nhất là khi gặp đồng hương Quảng Ninh. Anh em mấy năm xa quê hương nay gặp được đồng hương mừng vui không kể xiết. Đồng chí nào cũng trung thực hiền lành và dũng cảm. Một đơn vị công binh toàn là người miền Đông. Đồng chí Hợp ở Đầm Hà mấy năm liền là chiến sĩ thi đua. Đồng chí Phấn ở Ba Chẽ là chiến sĩ quyết thắng. Có nhiều chiến sĩ ở Hòn Gai, Cẩm Phả khi xem xong buổi đội biểu diễn liền nhảy lên ôm chầm lấy chúng tôi mà khóc: “Các anh làm cho bọn em xúc động. Nhớ mỏ, nhớ tầng than đến cồn cào”. Anh Đệ quê ở Đông Triều, là anh rể của Thanh Biểu, nhạc công đoàn Cải lương. Nghe tin có văn công về phục vụ đơn vị, anh được phân phối 1 gói chè Thanh Hương, cách đấy đã 2 tháng, vậy mà anh vẫn gói kỹ và giữ cẩn thận chờ cho đội đến mới giở ra tiếp chúng tôi.
Đi đến đâu chúng tôi cũng được đón tiếp rất niềm nở, thân tình. Nhiều đơn vị còn tổ chức đi săn bắt, câu cá về cải thiện cho chúng tôi. Trong khi đó tôi để ý bữa ăn của các chiến sĩ chỉ có độc món ruốc bông và ít canh môn thục, nhìn thấy thế mà ái ngại không dám gắp thức ăn. Nhiều đơn vị còn may cả áo mới cho chị em. Thường những buổi chia tay là lưu luyến nhất. Các chiến sĩ, chiến đấu anh dũng vậy, trước kẻ thù quyết liệt vậy, mà khi chia tay chúng tôi, nhiều người đã không cầm được nước mắt. Những lúc như vậy chúng tôi không muốn rời đi.
Kết thúc chuyến đi, Đội văn công xung kích công nhân mỏ Quảng Ninh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, nhiều huân, huy chương cho các cá nhân và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, đến nay một nửa các anh chị em trong đội đã trở về với cát bụi. Riêng tôi chất độc dioxin vẫn hành hạ hằng ngày nhưng mỗi lần nghĩ tới Trường Sơn là biết bao nỗi nhớ lại ùa về với đầy ắp niềm vui và nỗi tự hào vì những ngày tháng đó là quãng thời gian mà tôi thấy mình đáng sống nhất.