21
18
/
1101451
Nhà báo và những thời khắc lịch sử
longform
Nhà báo và những thời khắc lịch sử

Cover

Họ là thế hệ nhà báo đầu tiên sau ngày Vùng mỏ Quảng Ninh được giải phóng - những người đã trải qua giai đoạn làm báo đầy gian khó trong điều kiện thiếu thốn đủ bề. Những nhà báo lão thành ấy không chỉ là chứng nhân lịch sử, mà còn là những người trực tiếp ghi lại các thời khắc quan trọng, các sự kiện có ý nghĩa lớn lao ở Vùng mỏ anh hùng. Bằng tâm huyết và trách nhiệm nghề nghiệp, họ đã đóng góp những lát cắt sống động, chân thực vào kho tư liệu của báo chí cách mạng Quảng Ninh - một phần không thể thiếu trong dòng chảy lịch sử báo chí nước nhà.

Ảnh trong văn bản

Cố nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Công Vượng sinh năm 1934 tại huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông là thế hệ nhà báo đầu tiên của Báo Quảng Ninh (nguyên Trưởng Ban Bạn đọc Báo Quảng Ninh, nay là Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh) và được biết đến như một nghệ sĩ nhiếp ảnh gạo cội của Vùng mỏ Quảng Ninh. Trong suốt sự nghiệp tác nghiệp và sáng tác, ông đã ghi lại những hình ảnh để đời, góp phần làm phong phú lịch sử nhiếp ảnh và báo chí cách mạng Vùng mỏ.

Ngay từ thuở nhỏ, ông đã có bốn năm học Thiếu sinh quân tại Liên khu 4, thường xuyên được phân công viết báo tường. Đây là bước đệm quan trọng giúp ông tiếp cận với nghề báo dù không qua đào tạo chính quy. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Nhân dân Việt Nam - ngôi trường đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông được phân công công tác tại Báo Lao động. Tháng 12/1956, khi chuẩn bị nhận nhiệm vụ tại Báo Lao động, ông nhận được lời mời từ Báo Vùng mỏ - cơ quan kết nghĩa với Báo Lao động và đã cùng nhà báo Võ Liên tình nguyện về đây công tác với tinh thần xung phong.

Ảnh với chú thích
Bức ảnh "Bác Hồ nâng niu hòn than" của nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh Công Vượng chụp khi Người về thăm và nói chuyện với nhân dân Vùng mỏ Tết Ất Tỵ năm 1965.

Vùng mỏ - mảnh đất giàu tiềm năng với vô vàn đề tài đa dạng trở thành nơi ông thỏa sức vung bút. Ông thường xuyên bám sát cơ sở, có khi lưu lại Cửa Ông, Cẩm Phả đến ba tháng liền, chỉ khi có lệnh mới trở về Hòn Gai. Có những lúc ông ở mỏ Hà Lầm hàng tuần, không về tòa soạn dù chỉ cách đó vài cây số. Thời điểm ấy, ông và đồng nghiệp còn tự tay phát hành báo trên công trường, bởi bưu điện chưa đảm nhiệm việc này.

Sau 6 năm làm báo tại Vùng mỏ, ông được cử đi học lớp báo chí đầu tiên do Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức tại Hà Nội trong một năm. Tốt nghiệp, ông trở về và làm Tổ phó Tổ tuyên truyền công nghiệp Trung ương của Báo Quảng Ninh. Thời điểm này, ngành Than có thêm một tờ báo chuyên tuyên truyền về việc sản xuất than lấy tên là Vùng mỏ, ông tình nguyện về công tác tại đây.

Không chỉ là nhà báo, Nguyễn Công Vượng còn là nghệ sĩ nhiếp ảnh xuất sắc. Ông ghi lại nhiều khoảnh khắc quý giá trên các công trường khai thác than như Bàng Danh A, Lộ Phong (mỏ Hà Tu) với hình ảnh công nhân đẩy xe goòng, xúc than bằng xẻng hay những chiếc máy xúc đầu tiên xuất hiện. Từ những trải nghiệm thực tế, ông sáng tác nhiều tác phẩm về thợ mỏ, công việc sản xuất than và tự vệ mỏ - những tư liệu quý giá phản ánh sinh động cuộc sống lao động và tinh thần cách mạng của Vùng mỏ.

Ảnh căn trái

Hai trong số những bức ảnh để đời của ông là bức ảnh Bác Hồ nâng hòn than trong dịp về thăm và nói chuyện với nhân dân Vùng mỏ Tết Ất Tỵ năm 1965 và bức ảnh viên phi công Mỹ An-vơ-rét bị bắt sống trong chiến thắng trận đầu ngày 5/8/1964.

Về bức ảnh viên phi công Mỹ, nhà báo Công Vượng từng kể rằng: Khi thị xã Hòn Gai vang tiếng máy bay và súng cao xạ, ông nhanh chóng đến hiện trường để ghi lại tư liệu, nhưng viên phi công đã bị bắt và đưa đi trước khi ông kịp chụp. Đêm đó, ông nhận tin phi công bị giam tại Bãi Cháy và lập tức lên đường với máy ảnh trên tay.

Ảnh căn phải

Tại đơn vị hải quân, dù phi công cố tránh né ống kính, ông vẫn bình tĩnh hạ máy và bấm liên tục. Bức ảnh cuối cùng ghi lại ánh mắt nửa sợ hãi nửa khuất phục của viên phi công, được đăng trên Báo Quảng Ninh và Báo Nhân dân ngay sau chiến thắng, gây ấn tượng mạnh mẽ trong công luận.

Ông cũng ghi lại khoảnh khắc Bác Hồ nâng niu hòn than thứ 4 triệu - biểu tượng quý giá của Vùng mỏ. Bức ảnh này được đăng trang trọng trên trang nhất số báo tiếp theo, gây xúc động sâu sắc với độc giả cả nước.

Ngoài những tác phẩm nổi bật, nhà báo Công Vượng để lại gia tài báo chí đồ sộ với hàng trăm bài viết và ảnh nghệ thuật đăng trên báo chí tỉnh và trung ương. Tác phẩm của ông được trưng bày trong nhiều phòng truyền thống, bảo tàng và được chọn triển lãm khu vực đồng bằng sông Hồng cũng như các bộ, ngành trung ương. Đây là tài sản quý giá của một nhà báo, nghệ sĩ cần mẫn, tận tâm và nhiều sáng tạo.

Ảnh với chú thích
Chị Nguyễn Thanh Hà con gái cố nhà báo Nguyễn Công Vượng  đang công tác tại Trung tâm Truyền thông tỉnh tự hào bên chiếc máy ảnh chụp Trung úy phi công Mỹ An-vơ -rét bị bắt sống ngày 5-8-1964. Ảnh Hoàng Quỳnh

Ảnh trong văn bản

Nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha sinh năm 1938 tại TX Quảng Yên, nguyên Trưởng Ban Chính trị - Xã hội, Báo Quảng Ninh (nay Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh). Trước khi làm báo chuyên nghiệp, ông là công nhân lái máy xúc của mỏ than Hà Tu những năm đầu khi Vùng mỏ được giải phóng.

Nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha cho biết: Chính những năm tháng gắn với buồng lái đã rèn luyện cho tôi sức chịu đựng bền bỉ, vượt qua cái nắng hầm hập của mùa hè, cái giá lạnh tê buốt của mùa đông và những lớp bụi mù mịt đặc trưng của Vùng mỏ. Đây chính là “thực tế sống” và cái “vốn” để tôi trở thành người làm báo chuyên nghiệp sau này.

Ảnh với chú thích
Bức ảnh "Con mắt biên cương" được nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha chụp tại biên giới Bình Liêu tháng 2-1979.

Ở mỏ Hà Tu những lúc rảnh, lúc nghỉ ngơi ông thường xuyên đọc sách báo, viết về những trải nghiệm cuộc sống mà chính bản thân đã thực tế. Ông nhìn đời bằng chính ánh mắt chân thành, thấm đẫm tình yêu của người thợ mỏ: Mộc mạc, sâu sắc và không màu mè. Và trong đôi mắt ấy, những “gương mặt than” - những người lao động lam lũ, tận tụy, vất vả hiện lên một cách đầy trân quý và cảm động.

Ảnh với chú thích
Các nữ ca sĩ, nghệ sĩ Vùng mỏ hát phục vụ các chiến sĩ tại trận địa pháo tại huyện Bình Liêu được Nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha chụp tháng 2/1979.

Ảnh căn trái

Năm 1962, nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha chính thức về công tác tại Báo Vùng mỏ. Ông từng chia sẻ rằng: Cái duyên cầm bút đến với mình một cách tự nhiên, như một mạch nối từ buồng lái máy xúc ra trang viết. Trong những năm tháng gắn bó với công trường, giữa âm thanh gầm gừ, rung chuyển của máy xúc, của từng tầng than đổ xuống, ông cảm nhận được một nhịp điệu thôi thúc - nhanh hơn, mạnh hơn. Khi rời buồng lái để cầm bút, âm thanh công trường không còn nữa, nhưng thay vào đó là một đôi mắt tinh tường hơn; biết nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu vào đời sống. Chính từ cái nhìn ấy, ông khắc họa cuộc sống thợ mỏ không chỉ bằng câu chữ mà bằng chiều sâu cảm xúc và sự thấu hiểu chân thành qua từng tác phẩm báo chí của mình.

Nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha đã có những tháng ngày tác nghiệp trên chiến trường biên giới phía Bắc với vai trò vừa là nhà báo, vừa là nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ông đã ghi lại nhiều khoảnh khắc sinh động, đáng nhớ của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Ông nhớ lại: Vào năm 1978, khi người Hoa rút về nước, tôi cùng anh Trương Thái có mặt tại Bắc Luân. Trong thời điểm xảy ra bạo loạn trên cầu Bắc Luân, anh Trương Thái bị thương. Tôi đã bí mật trèo lên cầu và chụp lại một bộ ảnh ghi lại tình hình chiến sự tại đây. Đêm đó, tôi vay giấy ảnh từ địa phương để phóng ảnh và nhanh chóng trưng bày bộ ảnh ngay tại Huyện ủy Móng Cái. Bộ ảnh thu hút đông đảo nhân dân đến xem, ghi dấu ấn quan trọng trong việc phản ánh sự kiện lịch sử này.
 

Ảnh với chú thích
Nhà báo - Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha (người đeo kính) chụp ảnh cùng các chiến sĩ ngay tại trận địa pháo tháng 2/1979. Ảnh nhân vật cung cấp.

Tháng 2/1979, tôi có những ngày bám trụ ở điểm tựa Cao Ba Lanh, Đồi 600 (Bình Liêu), nơi địa hình đầy hiểm nguy, nhiều khu vực có mìn chống tăng do ta bố trí. Hai chiến sĩ dẫn đường cho tôi đến các trận địa sau đó bị trúng mìn và bị thương nặng. Trong hoàn cảnh đó, tôi đã chụp được bộ ảnh chân thực nhất về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Từ hình ảnh các chiến sĩ quả cảm, những cán bộ chiến sĩ của Sư đoàn 395 bàn kế hoạch tác chiến, đến các văn nghệ sĩ mang lời ca tiếng hát tiếp sức nơi tuyến lửa.

Nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Đỗ Kha luôn nghĩ rằng trách nhiệm của mình lúc bấy giờ là phải ghi lại những khoảnh khắc lịch sử, dù phải đối mặt hiểm nguy trong quá trình tác nghiệp, để phản ánh cuộc chiến đấu đầy hy sinh và gian khổ của quân và dân ta tại mặt trận Bình Liêu.

Ảnh trong văn bản

“Đây là Đài Truyền thanh Khu mỏ Hồng Quảng” - Lần đầu tiên đặt chân đến vùng đất này, tôi đã nghe thấy âm thanh quen thuộc ấy. Kể từ đó, sự nghiệp làm báo của tôi gắn bó với chính những âm thanh ấy. Đó là lời chia sẻ đầy xúc động của nhà báo Nguyễn Sơn Hải, nguyên phóng viên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Quảng Ninh (nay là Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh).

Nhà báo Nguyễn Sơn Hải sinh năm 1937 tại Thanh Hóa. Trước khi đến với nghề báo, ông nhiều năm giảng dạy ở Ninh Bình. Đầu năm 1960, ông theo học lớp Báo chí Trung ương khóa I tại Phân hiệu II Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Đây là khóa học đặc biệt quy tụ cán bộ làm báo từ trung ương và địa phương, với nhiều học viên chưa từng công tác báo chí nhưng được cử đi học để bổ sung đội ngũ làm báo chuyên nghiệp cho đất nước.

Đầu năm 1961, nhà báo Nguyễn Huy Trợ, Phó Ban Tuyên giáo Khu ủy Hồng Quảng, Phó Chủ nhiệm Báo Vùng Mỏ, trực tiếp lên trường để lựa chọn cán bộ về công tác tại Quảng Ninh. Nguyễn Sơn Hải là một trong 10 học viên được phân công về khu Hồng Quảng, nhận nhiệm vụ tại Báo Vùng Mỏ và Đài Truyền thanh Khu Hồng Quảng - những cơ quan báo chí đầu tiên đặt nền móng truyền thông ở vùng đất mỏ. Trong nhóm này, ông cùng các đồng nghiệp được cử về Đài Truyền thanh.

Ảnh với chú thích
Nhà báo Nguyễn Sơn Hải lưu giữ những bản tin được ông biên tập cách đây đã hơn 40 năm.

Lúc đó, Đài được Liên Xô hỗ trợ xây dựng nhưng cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn. Cả Đài chỉ có một chiếc máy ghi âm MAC8 nặng khoảng 30kg phục vụ sản xuất chương trình. Do không có phương tiện vận chuyển chuyên dụng, mỗi lần đi ghi âm hội nghị, phóng viên và kỹ thuật viên phải thuê xích lô chở thiết bị, tự mang vác vào hội trường. Họ phải tính toán kỹ nội dung để tiết kiệm thời gian, đảm bảo kịp dựng và phát sóng đúng giờ. Dù khó khăn nhưng tất cả làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, nhận thức rõ vai trò quan trọng của tiếng loa truyền thanh trong đời sống nhân dân.

Mặc dù công việc vất vả, đội ngũ phóng viên, kỹ thuật viên của Đài luôn nhiệt huyết, làm việc không kể ngày đêm để đảm bảo chất lượng chương trình. Với những phóng viên trẻ như ông, cảm xúc rất đặc biệt khi lần đầu nghe tin bài, phóng sự của mình được phát sóng. Chỉ sau vài tháng, ông được phân công phụ trách mảng văn hóa - xã hội, lúc đó đội ngũ biên tập rất mỏng và mỗi người cùng đảm nhận nhiều vai trò như viết tin, biên tập, dàn dựng chương trình phát thanh hàng ngày.

Bên cạnh biên tập tin bài, nhà báo Nguyễn Sơn Hải còn phụ trách mảng văn nghệ, sản xuất các chương trình ca nhạc, đọc truyện, câu chuyện truyền thanh, sân khấu, giới thiệu phim, tiếng thơ phát hàng tuần. Dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Đài, nhiều chương trình văn nghệ được tổ chức rộng rãi, thu hút đông đảo người dân, góp phần phát triển phong trào ca hát quần chúng. Nhiều chương trình sau được gửi về Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng, tạo tiếng vang lớn trong cả nước. Từ phong trào này, Vùng mỏ đã phát hiện và bồi dưỡng nhiều tài năng nghệ thuật trở thành những nghệ sĩ ưu tú, nhân dân, để lại dấu ấn đậm nét trong nghệ thuật cách mạng Việt Nam.

Ngày 5/8/1964, lần đầu tiên người dân Hòn Gai (nay là TP Hạ Long) nghe tiếng còi báo động vang lên trên hệ thống loa truyền thanh cùng giọng phát thanh viên khẩn thiết thông báo máy bay Mỹ đang đánh phá Vùng mỏ. Bầu trời Quảng Ninh rung chuyển bởi tiếng động cơ phản lực và pháo cao xạ. Toàn Vùng mỏ bước vào trạng thái khẩn cấp. Khi loa truyền thanh thông báo "Máy bay địch đã rút khỏi khu vực” kèm bản tin hào sảng, bắn rơi 3 máy bay Mỹ, bắt sống giặc lái, cả thị xã Hòn Gai vỡ òa trong niềm tự hào.

Ảnh với chú thích
Nhà báo Nguyễn Sơn Hải, nguyên phóng viên Đài PT-TH tỉnh Quảng Ninh kể về những năm tháng làm báo tại Vùng mỏ.

Nhà báo Nguyễn Sơn Hải chia sẻ: Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, tiếng loa truyền thanh luôn là người bạn thân thiết của người dân Vùng mỏ. Đó là nơi phát đi bản tin thời sự, chương trình văn nghệ, mang đến thông tin và niềm vui mỗi ngày. Với nhiều gia đình, loa truyền thanh như chiếc “đồng hồ sống”, đánh thức sớm mai và khép lại ngày lao động. Khi nhân dân sơ tán, hệ thống loa được nối dài theo từng bước chân, đảm bảo thông tin đến mọi nơi. Trong thời gian chiến tranh, Đài Truyền thanh nhiều lần phải di dời để tránh bom đạn từ Núi Hạm, hang Đèo Bụt, đồi đất Bãi Muối, dốc Bồ Hòn - Núi Bài Thơ, nhưng luôn duy trì hoạt động liên tục, giữ vững vai trò tiếng nói của nhân dân.

Dù di chuyển đến đâu, nhà báo Nguyễn Sơn Hải và đồng nghiệp luôn kiên trì bám trụ, xây dựng chương trình, phát bản tin và đảm nhận nhiệm vụ báo động phòng không qua loa truyền thanh. Ông kể lại: Năm 1972, khi chiến tranh ác liệt nhất, ông làm thường trực biên tập Đài tại Núi Hạm. Một bộ phận khác do đồng chí Ngọc Vân phụ trách, bám trụ tại Đài ở khu bến Đoan, ăn ngủ trong hầm trú bom do người Pháp xây dựng.

Sau hòa bình lập lại, ông tiếp tục giữ vai trò thường trực biên tập Đài đến khi nghỉ hưu năm 1998. Suốt sự nghiệp, ông đã cống hiến hết mình trong giai đoạn gian khó, gắn bó với vùng đất mỏ anh hùng, để tiếng loa truyền thanh vang vọng mãi trong lòng người dân.

Vượt qua bom đạn, bằng lòng quả cảm và niềm say nghề cháy bỏng, các nhà báo Quảng Ninh đã tạo nên những tác phẩm báo chí sống động, đa chiều, khách quan, trung thực; góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Những hình ảnh ấy không chỉ là minh chứng lịch sử hào hùng của Vùng mỏ, mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về những con người dũng cảm, kiên cường, sống và cống hiến hết mình cho sự nghiệp báo chí Quảng Ninh.

 

Thực hiện: Dương Trường
Trình bày: Vũ Đức

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu