21
18
/
1101506
Bản hùng ca trên vùng đất địa đầu Đông Bắc
longform
Bản hùng ca trên vùng đất địa đầu Đông Bắc

Cover

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là một bản trường ca hùng tráng, khẳng định ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết và khát vọng độc lập tự do của quân và dân nơi vùng Đông Bắc của Tổ quốc. Đó không chỉ là cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, mà còn là hành trình dựng xây chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ thiêng liêng với hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam.

Ảnh trong văn bản

Là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc, Quảng Ninh trong những năm chiến tranh giữ vị trí đặc biệt, vừa là hậu phương sản xuất, vừa là tiền tuyến trực tiếp hứng chịu sự đánh phá của địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân toàn tỉnh đã quật cường chống trả chiến tranh phá hoại, đồng thời dồn toàn lực cả sức người lẫn sức của chi viện cho miền Nam, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ảnh với chú thích
Khẩu đội pháo tàu T144 Hải quân đã anh dũng chiến đấu bắn trả máy bay Mỹ ngày 5/8/1964 trên Vịnh Hạ Long. Ảnh tư liệu.

Giai đoạn chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã huy động hơn 8.000 lượt máy bay, ném gần 400.000 quả bom các loại vào các nhà máy, hầm mỏ, bệnh viện, trường học, các khu dân cư, thả hàng trăm quả thủy lôi, phong tỏa cảng… Đặc biệt, có những thời điểm, máy bay Mỹ gần như muốn hủy diệt Hòn Gai khi ngày nào cũng ném bom, bắn rốc két. Những địa điểm trọng yếu như Nhà máy điện Cột 5, bến phà Bãi Cháy, Hà Tu… bị chúng thả bom nhiều lần… Trong hoàn cảnh khốc liệt ấy, quân và dân Quảng Ninh vẫn bám trụ kiên cường, vừa sản xuất, vừa chiến đấu đánh trả máy bay Mỹ trên 5.000 trận. 

Bà Nguyễn Thị An (89 tuổi), nguyên công nhân Nhà máy điện Cột 5 kể: 

"Đó là những ngày tháng không thể nào quên đối với thế hệ chúng tôi. Dưới mưa bom, chúng tôi vẫn quyết tâm giữ vững “trận địa” sản xuất. Có hôm máy bay Mỹ quần thảo khu vực nhà máy, bên ngoài bom nổ dữ dội, nút báo điện, tai nghe vòng quay của tuốc bin cứ chồm lên, tình thế rất nguy hiểm nhưng kíp trưởng lúc đó là anh Tuấn vẫn bình tĩnh ra lệnh: Ai đang vận hành, hãy đứng nguyên vị trí điều khiển máy. Mọi người nhờ đó mà vững tin vận hành máy an toàn".

Ảnh với chú thích
Nhà máy điện Cột 5 sau những trận ném bom ác liệt của đế quốc Mỹ vẫn tỏa sáng dòng điện đi khắp các bến cảng, hầm mỏ. Ảnh tư liệu.

Suốt những năm chiến tranh phá hoại, Nhà máy điện Cột 5 đã kiên cường chống lại sự đánh phá của địch để sửa chữa, phục hồi. Trong trận địch đánh phá ngày 02/2/1967, dưới làn đạn pháo bảo vệ tích cực của bộ đội cao xạ, các chiến sĩ tự vệ là công nhân kỹ thuật đã dũng cảm sửa xong đường dây tải điện cho mỏ Hà Tu. Suốt một ngày địch đánh phá Hà Tu nhiều lần, rải xuống đây 42 quả bom các loại, nhưng khi máy bay địch vừa rời khỏi, thì nguồn điện từ Nhà máy lại sáng để sản xuất của mỏ Hà Tu trở lại hoạt động bình thường. Với khẩu hiệu “Địch đến ta đánh, địch đi ta lại sản xuất”, trong mưa bom, bão đạn của kẻ thù, CBCNV Nhà máy điện Cột 5 vẫn bám máy, bám lò để dòng điện Cột 5 luôn tỏa sáng trên các bến cảng, hầm mỏ Quảng Ninh. 

Không chỉ các vùng than, điện, các đảo tiền tiêu của tỉnh cũng hứng chịu sự tàn phá nặng nề. Từ năm 1965-1972, máy bay giặc Mỹ đã ném trên một vạn quả bom xuống đảo Ngọc Vừng, phá hủy hầu hết nhà cửa của nhân dân. Nhưng với tinh thần "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", bộ đội và dân quân du kích trên đảo đã hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, thường xuyên sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt. Hàng chục lần máy bay địch đánh bom vào trận địa, lần nào chúng cũng bị lực lượng vũ trang trên đảo phối hợp đánh trả quyết liệt và đã bắn rơi 12 máy bay giặc Mỹ. Trong đó, bộ đội bắn rơi 11 chiếc, dân quân du kích đảo bắn rơi 01 chiếc, phối hợp với các đơn vị khác bắn rơi 9 chiếc.

Ảnh với chú thích
Trận địa pháo phòng không 14,5 ly đánh máy bay Mỹ đóng trên đồi Tùng Lý, đảo Ngọc Vừng. Ảnh tư liệu.

Dưới làn mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù khi ấy, khắp Vùng mỏ đã xuất hiện nhiều tấm gương quả cảm, những con người bình dị mà kiên cường, không quản hiểm nguy, cùng nhau dựng nên "bức tường thép" bảo vệ quê hương. Đó là tấm gương chiến đấu anh dũng của chiến sĩ đại đội tự vệ nhà sàng Cửa Ông Phạm Văn Hùng. Trong trận chiến đấu ngày 01/10/1967, giặc Mỹ đánh phá trực tiếp vào trận địa pháo phòng không C24 bằng bom phá, rốc két và bom bi, đồng chí pháo thủ số 6 hy sinh ngay trên mâm pháo. Đồng chí Hùng đang ở vị trí chuyển đạn, đã tình nguyện vào thay vị trí pháo thủ số 6, tiếp tục đánh trả các tốp máy bay địch vào đánh phá cảng, nhà sàng, cầu 20, là một trọng điểm đơn vị bảo vệ. Sau đó đồng chí Hùng và một số chiến sĩ C24 bị thương nặng, được đơn vị cấp cứu kịp thời, nhưng anh đã hy sinh do vết thương quá nặng.

Ở bến phà Bãi Cháy, những người lái phà cũng trở thành chiến sĩ, khi trên nhiều chuyến phà gặp máy bay địch bắn phá, các anh vừa tổ chức bắn trả, vừa điều khiển phà chạy tắt vào các bến phụ, bảo đảm an toàn cho người và phương tiện. Hay như chị tự vệ Hoàng Thị Cát, trước những đợt máy bay địch lao dọc trục đường thị xã Hòn Gai, chị bình tĩnh hướng dẫn người già, trẻ nhỏ xuống hầm trú ẩn, rồi đứng giữa đường phố nâng súng bắn đón máy bay Mỹ. Họ chính là hiện thân của lòng yêu nước và tinh thần quật cường, đã cùng nhau viết nên bản anh hùng ca bất diệt trên vùng đất mỏ.

Cuộc đấu trí, đấu lực chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vô cùng ác liệt, nhưng Quảng Ninh đã phát huy cao độ sức mạnh của chiến tranh nhân dân, vận dụng linh hoạt thế trận địa phương, kết hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng tại chỗ, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Vùng mỏ đã góp phần quan trọng “chia lửa” với miền Nam, giảm bớt tổn thất cho chiến trường chính, tiếp sức mạnh cho ngày giải phóng.

Cựu chiến binh Đào Sỹ Quý, nguyên lính thông tin thuộc E3, F324, Quân đoàn 2, xúc động nhớ lại:

Mỗi lần nhận được thư từ quê nhà, biết quê mình vẫn sáng đèn, vẫn đứng vững giữa chiến tranh là chúng tôi yên tâm đánh giặc. Ở tiền tuyến, chúng tôi không một phút nao núng, vì biết quê hương vẫn không lùi bước.

Ảnh trong văn bản

Từ những ngày đầu thành lập tỉnh, Quảng Ninh mang trong mình hành trang đặc biệt, là sự hội tụ của 2 đơn vị hành chính giàu truyền thống Hải Ninh, khu Hồng Quảng (trước đó được hợp nhất từ tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hồng Gai), mỗi vùng đất đều in đậm dấu ấn văn hoá, lịch sử và thế mạnh riêng biệt. Khi được hợp nhất vào năm 1963, Quảng Ninh không chỉ là sự cộng gộp địa lý, mà là sự kết tinh của những tinh hoa văn hoá, sức mạnh con người và tài nguyên thiên nhiên. Sự liên kết giữa miền biển và miền núi, giữa các dân tộc anh em, đã làm nên một chỉnh thể thống nhất, tạo nên thế và lực mới cho toàn tỉnh trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Ảnh căn phải

Chính từ nền tảng ấy, khi chiến tranh leo thang, Quảng Ninh đã sớm trở thành tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là địa bàn chiến lược vừa bị địch tập trung đánh phá, vừa là nơi quân và dân ta kiên cường chống trả, không để kẻ thù khuất phục. Ngay từ ngày 05/8/1964, thời điểm không quân Mỹ ồ ạt mở màn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, quân và dân Quảng Ninh đã nổ súng quyết liệt, lập nên những chiến công đầu tiên đánh trả cuộc tập kích đường không của địch.

Trong suốt hai cuộc chiến tranh phá hoại, Quảng Ninh đã phải hứng chịu số bom đạn tương đương hơn 9.600 tấn thuốc nổ trút xuống 2.300 mục tiêu, hàng chục nghìn công trình dân sinh, kho tàng, cầu đường, nhà máy bị san phẳng. Thiệt hại vật chất lên tới gần 70 triệu đồng theo thời giá lúc bấy giờ, gấp gần 5 lần tổng sản lượng toàn tỉnh trong năm 1972. Song trong gian khổ, mất mát, khí thế của Vùng mỏ anh hùng vẫn rực cháy, không một tấc đất nào bị lùi bước, không một cơ sở trọng yếu nào ngưng hoạt động quá lâu. Mỗi tấc đất Quảng Ninh là một hầm hào kiên cường, mỗi người dân Quảng Ninh là một chiến sĩ quả cảm.

Không chỉ chiến đấu, Quảng Ninh còn nêu gương về tinh thần thi đua lao động sản xuất trong lửa đạn, vừa khôi phục kinh tế, vừa chi viện cho miền Nam ruột thịt. Từ các mỏ than Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí... những chuyến tàu vẫn đều đặn vượt biển, đêm ngày đưa "vàng đen" về cho đất nước. Trên những cánh đồng vùng Đông Triều, Yên Hưng, trên các hải đảo tiền tiêu như Cô Tô, Vân Đồn, những công trường, hợp tác xã vẫn đỏ lửa, không ngừng tạo ra của cải vật chất, dù bom đạn giặc Mỹ cày nát ruộng vườn.

Ảnh với chú thích
Giặc Mỹ phong tỏa đường biển, mỏ Mạo Khê dùng phương tiện thủ công vận chuyển than đi nhiều địa phương phục vụ sản xuất.

Tinh thần kháng chiến và lao động anh dũng ấy đã tạo nên những thành tích vẻ vang, góp phần tô thắm trang sử dân tộc. Lực lượng vũ trang Quảng Ninh đã cùng với nhân dân các dân tộc Vùng mỏ bắn rơi 200 máy bay Mỹ, đập tan âm mưu phá hoại vùng than của bọn Mỹ-Ngụy và các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc những thành quả to lớn của cách mạng, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Ảnh với chú thích
Nhà máy cơ khí Cẩm Phả đón nhận cờ thi đua khá nhất và lẵng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng năm 1972. Ảnh tư liệu.

Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Quảng Ninh đã được Đảng và Nhà nước phong tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh (1964), Huân chương Độc lập hạng Nhất (1968), Huân chương Độc lập hạng Nhì (1973)... Những phần thưởng đó không chỉ là sự ghi nhận của Đảng và nhân dân cả nước, mà còn là biểu tượng sáng chói cho truyền thống yêu nước, bất khuất và nghĩa tình của vùng đất Quảng Ninh. Một vùng đất đã "xẻ núi, bạt rừng, chắn sóng, thắng giặc" để viết tiếp bản hùng ca nối liền từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ, từ giữ nước đến dựng nước.

Thắng lợi của Quảng Ninh là một phần không thể thiếu trong thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước ta đi tới đại thắng mùa Xuân năm 1975, thu non sông về một mối. Trang sử hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên địa bàn Quảng Ninh không chỉ là biểu tượng cho lòng quả cảm trước bom đạn kẻ thù, mà còn là minh chứng sống động cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Chính sự hợp nhất giữa 2 đơn vị hành chính Hải Ninh - khu Hồng Quảng vào năm 1963 đã đặt nền móng cho một Quảng Ninh thống nhất, giàu tiềm năng và vững vàng về thế chiến lược.

Ảnh với chú thích

Từ quá khứ hào hùng nhìn về hiện tại, khi đất nước đang tiếp tục tiến hành công cuộc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, câu chuyện của Quảng Ninh hơn nửa thế kỷ trước vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc sáp nhập các địa phương là bước chuyển mình nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững và hài hoà hơn. Quảng Ninh hôm nay tiếp tục phát huy bài học lịch sử ấy trong từng bước đi phát triển. Từ miền than Uông Bí, Cẩm Phả đến vùng núi Bình Liêu, Tiên Yên, Ba Chẽ, hay miền biển đảo Cô Tô, Vân Đồn, tinh thần "đồng lòng, đồng sức" đã trở thành kim chỉ nam trong xây dựng nông thôn mới, thu hút đầu tư, phát triển du lịch xanh và kinh tế biển bền vững.

Hành trang lịch sử đã hun đúc nên bản lĩnh Quảng Ninh - vùng đất địa đầu Tổ quốc, nơi tinh thần đoàn kết và khát vọng đổi mới không ngừng tỏa sáng, viết tiếp những trang sử vàng của dân tộc.

Thực hiện: Ngọc Ánh
Trình bày: Vũ Đức

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu