21
18
/
1101517
Tầm nhìn toàn cầu, hành động địa phương
longform
Tầm nhìn toàn cầu, hành động địa phương

Văn bản với chữ cái đầu

Với tư duy chiến lược mang tầm toàn cầu nhưng hành động quyết liệt từ cơ sở, Quảng Ninh đã và đang khẳng định vai trò là một cực tăng trưởng năng động của khu vực phía Bắc. Từ một tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo, Quảng Ninh không ngừng chuyển mình mạnh mẽ, tận dụng tốt vị trí địa lý chiến lược, phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, xây dựng mô hình phát triển bền vững, gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống cho người dân. Mỗi quyết sách ở địa phương hôm nay đều mang dáng dấp của một tầm nhìn dài hạn, sâu rộng, vừa vì Quảng Ninh, vừa vì tương lai đất nước.

Ảnh trong văn bản

Bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986 trong bối cảnh nhiều khó khăn, từ hạ tầng lạc hậu, cơ chế bao cấp kéo dài đến mô hình kinh tế manh mún, Quảng Ninh đã sớm thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm. Tỉnh chủ động cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng thành những quyết sách phù hợp với thực tiễn địa phương, đồng thời nhận diện sớm các điểm nghẽn nội tại để từng bước tháo gỡ, mạnh dạn chuyển mình theo tinh thần đổi mới toàn diện mà Đảng khởi xướng.

Tháng 12/1986, thực hiện định hướng từ Đại hội VI của Đảng, Việt Nam chính thức bước vào công cuộc đổi mới – một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, đánh dấu sự chuyển mình từ cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới đã tạo luồng sinh khí mới cho đời sống kinh tế - xã hội, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phục hồi tăng trưởng và tiến tới phát triển bền vững.

Ảnh với chú thích
Đồng chí Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh, tháng 7/2025.

Cùng cả nước, Quảng Ninh cũng bước vào hành trình đổi mới trong muôn vàn khó khăn. Khi ấy, tỉnh là một địa phương nghèo, hạ tầng yếu kém, sản xuất nhỏ lẻ, kinh tế chủ yếu dựa vào ba hình thức: quốc doanh, tập thể và cá thể, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nhưng hiệu quả thấp. Cơ chế bao cấp kéo dài khiến các nguồn lực bị trì trệ, tư duy sản xuất bị bó hẹp trong nếp nghĩ cũ. Các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, thiếu gắn kết lợi ích giữa cá nhân và tập thể, trong khi tiểu thủ công nghiệp và kinh tế cá thể chưa được khuyến khích phát triển. Nông nghiệp còn thiếu cơ giới hoá, năng suất thấp, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.

Đặc biệt, Quảng Ninh ở vào thế “ốc đảo” về giao thông. Các tuyến đường bộ, đường sắt, cảng biển đều lạc hậu, chia cắt giữa các địa phương trong tỉnh và giữa tỉnh với các vùng kinh tế trọng điểm khác, làm giảm khả năng kết nối, gia tăng chi phí vận chuyển và cản trở phát triển.

Ảnh với chú thích
Chủ tịch nước Lương Cường kiểm tra tại Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh.

Trước thực trạng đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, mạnh dạn đổi mới tư duy và hành động, cụ thể hóa chủ trương của Trung ương bằng các quyết sách phù hợp thực tiễn. Một dấu mốc quan trọng là việc ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU (14/3/1987), xác định ba chương trình kinh tế trọng điểm cho giai đoạn 1987-1990: “lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Nghị quyết này được xem là kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới giai đoạn đầu tại Quảng Ninh, đặt nền móng xóa bỏ tư duy bao cấp, khơi dậy động lực sản xuất trong toàn tỉnh.

Không dừng lại ở tái cơ cấu sản xuất, Quảng Ninh còn chủ động thay đổi phương thức điều hành kinh tế. Từ cuối những năm 1990, tỉnh bắt đầu thí điểm cơ chế “giao quyền, khoán việc” cho các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm bao cấp. Đồng thời, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được tạo điều kiện tham gia vào lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Cải cách hành chính cũng được đẩy mạnh, từng bước nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.

Ảnh với chú thích
Sau khi kết nối trở lại, tàu biển tuyến Bắc Hải - Hạ Long đã đưa 2 chuyến với trên 1.500 khách tới Hạ Long dịp cuối năm 2024. Ảnh: Tạ Quân

Những nỗ lực đó đã mang lại kết quả rõ nét: Giai đoạn 1986-1991, Quảng Ninh cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là ngành Than - ngành kinh tế chủ lực. Tỉnh từng bước kiểm soát giá cả, ổn định tài chính, bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Giai đoạn 1991-1995, kinh tế - xã hội tỉnh thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bắt đầu tích lũy, nâng cao chất lượng sống của người dân. Từ 1995-2001, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá được đẩy mạnh; cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và du lịch, nguồn lực được huy động hiệu quả hơn, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đến giai đoạn 2001-2005, Quảng Ninh tận dụng các lợi thế về địa lý, tài nguyên để đẩy mạnh đầu tư hạ tầng, nâng năng lực sản xuất cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Giai đoạn 2005-2010, tỉnh giữ vững đà tăng trưởng kinh tế cao, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực có lợi thế, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - du lịch - dịch vụ.

Tuy nhiên, trong 20 năm đầu đổi mới, Quảng Ninh cũng bộc lộ những mâu thuẫn nội tại sâu sắc. Mâu thuẫn rõ nét nhất là giữa tiềm năng - lợi thế to lớn với thực tế phát triển còn hạn chế. Dù sở hữu trữ lượng than lớn nhất cả nước, đường bờ biển dài gần 250 km và những danh thắng nổi tiếng thế giới, như: vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, Yên Tử… nhưng việc khai thác tiềm năng này vẫn chưa đồng bộ. Công nghiệp khai khoáng là trụ cột ngân sách tỉnh nhưng lại trở thành lực cản cho du lịch, dịch vụ. Khai thác than ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, trong khi du lịch đòi hỏi không gian sinh thái trong lành, được bảo tồn. Hai ngành phát triển trên cùng một địa bàn nhưng mâu thuẫn về mục tiêu, cạnh tranh nguồn lực và gây áp lực lên không gian phát triển.

Ảnh trong văn bản

Ảnh với chú thích
Thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp của Vịnh Hạ Long. Ảnh: Đỗ Phương

Đến trước năm 2011, kinh tế Quảng Ninh phụ thuộc nặng nề vào khai thác khoáng sản. Công nghiệp khai thác chiếm tới 59% cơ cấu GRDP; nguồn thu từ khoáng sản chiếm 67% thu ngân sách nội địa. Điều này tạo nên nghịch lý: trong khi tỉnh có nguồn lực để đầu tư hạ tầng, phát triển xã hội, thì mô hình tăng trưởng lại thiếu bền vững, đối mặt với nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và tăng trưởng thấp về giá trị gia tăng.

Các mỏ than lộ thiên lớn dần cạn kiệt, buộc phải khai thác hầm lò với chi phí cao và nguy cơ mất an toàn lao động. Công nghiệp dù tạo việc làm nhưng chủ yếu sử dụng lao động phổ thông, năng suất thấp. Không những vậy, hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là giao thông, cũng là điểm nghẽn lớn. Quốc lộ 18 - trục giao thông huyết mạch xuống cấp, thường xuyên tắc nghẽn; giao thông nội tỉnh và liên vùng thiếu kết nối, làm tăng chi phí logistics, hạn chế dòng chảy du lịch và thương mại. Từ Hạ Long đi Móng Cái mất tới 3-4 giờ; từ Đông Triều đến Móng Cái tương đương thời gian đi từ Hà Nội vào Nghệ An - một bất lợi rõ rệt cho giao thương và phát triển kinh tế vùng.

Ảnh với chú thích
Đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, trao đổi cùng các đảng viên Chi bộ Khu phố 1, phường Giếng Đáy (nay là phường Việt Hưng).

Hạ tầng yếu đã khiến tỉnh không phát huy được vị trí chiến lược, chưa trở thành cầu nối giữa miền Bắc Việt Nam với Trung Quốc và ASEAN. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị - hành chính chậm cải cách khiến bộ máy quản lý không kịp thích ứng với yêu cầu phát triển. Tư duy điều hành lạc hậu, thủ tục rườm rà, cơ chế “xin - cho” kéo dài trở thành lực cản đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp. 

Từ những điểm nghẽn đó, yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thay đổi tư duy phát triển và tái cơ cấu kinh tế trở nên cấp thiết. Việc giảm dần phụ thuộc tài nguyên, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, chú trọng các ngành dịch vụ, du lịch, công nghiệp công nghệ cao… đã được xác định là hướng đi chiến lược, đặt nền móng cho bước phát triển mới của Quảng Ninh từ sau năm 2011.

Ảnh trong văn bản

Từ năm 2011, Quảng Ninh đã xác lập tư duy chiến lược với tầm nhìn phát triển dài hạn, đồng thời chủ động rà soát, nhận diện rõ những mâu thuẫn, điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Trên nền tảng đó, tỉnh mạnh dạn lựa chọn cách tiếp cận mới, đột phá trong tư duy quy hoạch, mô hình tăng trưởng và cơ chế điều hành. Với tinh thần “dám nghĩ, dám làm”, Quảng Ninh từng bước tháo gỡ những rào cản nội tại, xây dựng nền tảng vững chắc để bứt phá trong kỷ nguyên phát triển mới, tự tin hội nhập sâu rộng vào dòng chảy phát triển của khu vực và thế giới.

Quảng Ninh là một trong những địa phương tiên phong trong cả nước mạnh dạn đề xuất, triển khai các đề án có tính tổng thể và chiến lược, được Trung ương đồng thuận, cho chủ trương thực hiện với nhiều cơ chế, chính sách đặc thù. Tiêu biểu, như: Đề án phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh và thí điểm xây dựng hai đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái (được Bộ Chính trị đồng ý tại Thông báo số 108-TB/TW, ngày 01/10/2012); Đề án xây dựng khu dịch vụ du lịch phức hợp cao cấp có casino tại Vân Đồn (Thông báo số 138-TB/TW, ngày 24/6/2013); Đề án 25 về đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và tinh giản bộ máy, biên chế - một sáng kiến có tác động lan tỏa toàn quốc, trở thành cơ sở để Trung ương ban hành các nghị quyết lớn về tổ chức bộ máy, cán bộ.

Ảnh với chú thích
Đồng chí Trịnh Thị Minh Thanh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, trao đổi cùng các đảng viên Chi bộ Khu phố 6, phường Mông Dương.

Trên hành trình ấy, Quảng Ninh đã lựa chọn quy hoạch là khâu đi trước mở đường. Bảy quy hoạch chiến lược được tỉnh thuê tư vấn quốc tế hàng đầu xây dựng, đảm bảo chất lượng, tầm nhìn dài hạn, khoa học và đồng bộ. Cách tiếp cận mới trong quy hoạch phát triển không chỉ khơi dậy tiềm năng từng địa phương mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh vùng - quốc gia. Mô hình phát triển không gian “một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá” với tâm là Hạ Long được mở rộng không gian sau khi nhập huyện Hoành Bồ; hai mũi đột phá là Khu kinh tế Vân Đồn và Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái; Khu kinh tế ven biển Quảng Yên là động lực tăng trưởng mới ở phía Tây - tất cả tạo nên cấu trúc liên kết chặt chẽ, khai mở dư địa phát triển mới, đồng thời phát huy sức mạnh tổng thể toàn tỉnh.

Ảnh trong văn bản

Bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước, tỉnh xác định đầu tư kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông là đột phá chiến lược. Trên cơ sở phát huy nội lực là quyết định và huy động ngoại lực là đột phá, năm 2013, tỉnh ban hành Nghị quyết 10, thí điểm 3 mô hình quản trị và đầu tư mới: “Lãnh đạo công - quản trị tư”, “Đầu tư công - quản lý tư” và “Đầu tư tư - sử dụng công”. Chính cách làm này giúp Quảng Ninh huy động hiệu quả nguồn lực xã hội: cứ 1 đồng ngân sách bỏ ra thu hút được từ 8 đến 9 đồng đầu tư ngoài ngân sách. Nhờ đó, trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh đã huy động hơn 123.000 tỷ đồng cho phát triển hạ tầng chiến lược. Đến nay, Quảng Ninh là địa phương có hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại bậc nhất cả nước, sở hữu sân bay quốc tế Vân Đồn, Cảng tàu khách quốc tế Hòn Gai, gần 200 km đường cao tốc - chiếm gần 10% chiều dài toàn quốc, kết nối thông suốt với Hải Phòng, Hà Nội, Lạng Sơn, Bắc Giang, tạo nền tảng quan trọng để mở rộng không gian phát triển, nâng tầm liên kết vùng, quốc gia và quốc tế.

Song song với đó, Quảng Ninh kiên định mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, đồng thời chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, lấy con người, thiên nhiên, văn hóa làm trung tâm. Tỉnh chú trọng phát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với hướng đi mới: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch biển đảo. Công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng phát triển xanh - sạch, tăng tỷ trọng chế biến chế tạo, công nghệ cao, từng bước giảm dần phụ thuộc vào khai khoáng, nhiệt điện, vật liệu xây dựng. Kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với đô thị hóa, phát triển hài hòa giữa các khu vực địa lý. Khu vực kinh tế tư nhân, khởi nghiệp sáng tạo và các doanh nghiệp địa phương được thúc đẩy phát triển mạnh, tạo động lực mới cho nền kinh tế.

Ảnh với chú thích
Lễ bế giảng lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ quy hoạch chức danh Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 và 2025-2030 do Tỉnh ủy Quảng Ninh phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức.

Cùng với phát triển kinh tế, Quảng Ninh luôn chú trọng đến an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng - an ninh và giữ gìn bản sắc văn hóa. Các chính sách phát triển vùng biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai toàn diện. Giao thông khu vực biên giới, vùng cao, đảo xa được đầu tư nâng cấp, kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, tuần tra, kiểm soát biên giới. Hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, cảng biển - cảng quân sự kết hợp được đầu tư đồng bộ. Đời sống nhân dân không ngừng cải thiện; các thiết chế văn hóa, di sản, giá trị lịch sử được bảo tồn, tôn tạo và chuyển hóa thành nguồn lực phát triển. Chính sự kết hợp hài hòa giữa kinh tế - xã hội - quốc phòng - văn hóa đã giúp Quảng Ninh vững vàng vượt qua mọi biến động, từng bước hiện thực hóa khát vọng phát triển với tầm nhìn toàn cầu và hành động quyết liệt từ địa phương.

Sau 40 năm đổi mới, Quảng Ninh đã chứng minh bản lĩnh tiên phong với tầm nhìn dài hạn và hành động thực chất từ cơ sở. Từ vùng than gian khó, tỉnh đã vươn mình trở thành hình mẫu phát triển năng động, hiện đại và bền vững. Những thành tựu hôm nay là nền tảng vững chắc để Quảng Ninh hướng tới mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030 - một cực tăng trưởng mạnh của cả nước trong thời kỳ mới. 

Thực hiện: Minh Thu - Thu Chung
 Trình bày: Vũ Đức

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu