Với định hướng chiến lược lấy công nghiệp, dịch vụ thúc đẩy nông nghiệp, lấy đô thị dẫn dắt nông thôn, tỉnh Quảng Ninh đã từng bước "mở khóa" tiềm năng vùng đặc thù để tạo ra chuyển biến rõ ở mỗi địa phương. Đây không chỉ là hướng đi hiệu quả để nâng cao đời sống người dân, mà còn là tiền đề để rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền, tạo đà bước vào kỷ nguyên mới.

Động lực từ các cụm công nghiệp
Nhằm khai thác tối đa lợi thế của khu vực miền núi, biên giới và hải đảo, giải quyết việc làm cho lao động địa phương, tăng thu ngân sách, các địa phương đã tích cực thu hút nguồn lực đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn.
Trong đó, các địa phương chú trọng thu hút đầu tư phát triển các cụm công nghiệp (CCN) với quy mô phù hợp. Từ đó, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thứ cấp vào hoạt động, phục vụ cho việc di dời cơ sở tiểu thủ công nghiệp, làm đòn bẩy cho công nghiệp địa phương.
CCN Nam Sơn (xã Ba Chẽ) do Công ty CP Hoàng Thái đầu tư được đưa vào hoạt động từ năm 2017. Đây là CCN đầu tiên được đầu tư tại khu vực miền núi, biên giới và hải đảo mở ra cơ hội phát triển cho địa phương này.
Giai đoạn 1 của dự án chủ đầu tư đã cơ bản xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông và cây xanh với diện tích 28,5ha, tổng mức đầu tư trên 276 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn của Nhà nước hỗ trợ trên 60 tỷ đồng, còn lại là nguồn vốn của chủ đầu tư. Không chỉ có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hệ thống đường giao thông kết nối với CCN cũng được quan tâm đầu tư hoàn thiện đảm bảo phục vụ cho việc vận chuyển, đi lại và thông thương của các nhà đầu tư thứ cấp.

Bằng nhiều ưu đãi về thuế, lao động, chi phí đầu tư, nhất là sự hỗ trợ tối đa của địa phương, đến nay, CCN Nam Sơn đã thu hút được 10 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư gần 640 tỷ đồng. Tỷ lệ lấp đầy của CCN đạt gần 87%, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế địa phương, giải quyết việc làm cho gần 500 lao động.
Những tín hiệu khả thi trong việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp vào CCN Nam Sơn đang giúp ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Ba Chẽ phát triển ổn định, tạo việc làm cho nhiều lao động, thúc đẩy kinh tế xã hội địa phương. Hiện, CCN đang tiếp tục nghiên cứu đầu tư cơ sở hạ tầng giai đoạn 2 với diện tích 19ha.
Sau một thời gian nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng các điều kiện, hoàn thiện thủ tục đầu tư, đầu tháng 6 vừa qua, CCN Yên Than đã được khởi công xây dựng tại xã Điền Xá với tổng diện tích gần 48ha, tổng vốn đầu tư gần 600 tỷ đồng.
CCN Yên Than do Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Quốc tế Tân Đại Dương làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật. CCN có vị trí thuận lợi, giáp với đường nối Quốc lộ 4B, Quốc lộ 18C (đường tỉnh 344) và có đường điện 110KV. Đây là dự án nhằm xây dựng hạ tầng kỹ thuật đồng bộ phục vụ việc di dời các cơ sở tiểu thủ công nghiệp ra khỏi vùng quy hoạch đô thị để hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường; đồng thời thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, logistics, chế biến nông sản, lâm sản...

Được biết, ngay sau khi khởi công, chủ đầu tư đã huy động tối đa nhân lực, vật lực, phương tiện thiết bị triển khai dự án. Đến nay, chủ đầu tư đã hoàn thành san nền 20% diện tích của dự án, đồng thời, tiến hành triển khai thi công hạ tầng kỹ thuật thoát nước mưa, kè, nền đường giao thông. Chủ đầu tư cam kết đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng, phấn đấu hoàn thành thi công trong quý I/2026.
CCN khi đi vào hoạt động dự kiến sẽ đáp ứng cho 250 doanh nghiệp dự án thứ cấp, tạo việc làm ổn định cho trên 2.000 lao động địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã Điền Xá theo hướng hiện đại. CCN được kỳ vọng tạo đột phá cho phát triển ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung của xã vùng cao Điền Xá trong thời gian tới.
Ngay sau CCN Yên Than, giữa tháng 6, dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng CCN phía Đông Đầm Hà B tại hai xã Đầm Hà và Quảng Tân (giai đoạn 1) đã được trao giấy chứng nhận đầu tư. Dự án do Công ty Cổ phần Shinec làm chủ đầu tư, có tổng nguồn vốn trên 500 tỷ đồng, quy mô trên 60ha.
Tính đến nay, ngay sau khi được địa phương bàn giao đất giai đoạn 1 với diện tích 25ha, chủ đầu tư đã gấp rút triển khai san lấp mặt bằng đạt 12% tổng diện tích đất được giao, đồng thời, tiến hành thi công một số hạng mục đầu tư của dự án như: Đường giao thông, hệ thống thoát nước, cấp nước sinh hoạt và PCCC, trạm biến áp…
Theo lộ trình, chủ đầu tư cam kết sẽ thu hút các dự án đầu tư thứ cấp với tỷ lệ lấp đầy đạt 50% diện tích ngay sau khi hoàn thành xây dựng hạ tầng và lấp đầy 100% trong năm thứ 3.
Với vị trí thuận lợi bên cạnh Quốc lộ 18, kết nối gần với tuyến cao tốc Hải Phòng - Móng Cái, cửa khẩu Quốc tế Móng Cái và sân bay Vân Đồn, CCN sẽ là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư thứ cấp. CCN là điểm nhấn quan trọng phát triển công nghiệp của hai xã Đầm Hà và Quảng Tân.

Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Shinec, cho biết: Mục tiêu của chúng tôi sẽ xây dựng CCN với các hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn, gắn phát triển công nghiệp với bảo đảm an sinh xã hội. Do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục huy động tối đa nguồn lực để triển khai dự án phấn đấu hoàn thành dự án trong thời gian sớm nhất. Chúng tôi hy vọng được chính quyền địa phương hỗ trợ tối đa trong việc giải phóng mặt bằng để triển khai thi công.
Song song với đó, tỉnh cũng ban hành quyết định thành lập 2 CCN Quảng Đức tại xã Quảng Đức và CCN Quảng Thành tại hai xã Quảng Hà, Quảng Đức.
Trong đó, CCN Quảng Đức có diện tích 69,44ha được đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng gồm: Giao thông, cấp nước, xử lý nước thải, cấp điện… CCN do Công ty CP Đầu tư cụm công nghiệp Green Park làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Dự kiến trong quý III/2025, dự án sẽ được trình duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 để triển khai các bước chấp thuận chủ trương đầu tư.
CCN Quảng Thành có diện tích 54,54ha. Chủ đầu tư hạ tầng là Công ty Cổ phần Kim Long. Dự án đang được chủ đầu tư triển khai các bước chuẩn bị đầu tư đảm bảo tiến độ đã đề ra. Ngành nghề hoạt động chính của 2 CCN là công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; kho bãi và các hoạt động hỗ trợ cho vận tải; hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình…
Tính đến thời điểm báo cáo, toàn tỉnh đã thành lập, mở rộng diện tích 16 CCN với tổng diện tích là 853,18ha. Trong đó, nhiều CCN nằm ở miền núi, biên giới và hải đảo được xác định là động lực tăng trưởng kinh tế ở khu vực này.
Mở đường phát triển từ đầu tư hạ tầng chiến lược
Nhận thức rõ vai trò, tiềm năng cũng như những khó khăn đặc thù của khu vực DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, tỉnh Quảng Ninh luôn dành sự quan tâm đặc biệt trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nhiều năm qua, tỉnh đã ban hành hàng loạt chính sách ưu tiên đầu tư, hỗ trợ hạ tầng, thu hút doanh nghiệp và phát triển nguồn nhân lực tại những khu vực này. Quan điểm xuyên suốt của tỉnh là phát triển vùng đặc thù không chỉ để thu hẹp khoảng cách giữa miền xuôi và miền ngược, mà còn nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có, từ đó tạo động lực lan tỏa cho tăng trưởng chung toàn tỉnh.

Giai đoạn 2021-2025, cùng với toàn Đảng, toàn dân cả nước, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội thứ XIII của Đảng, Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh, Quảng Ninh tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, cơ cấu lại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Công tác dân tộc tiếp tục được Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm sâu sắc và toàn diện. Tỉnh Quảng Ninh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, ưu tiên dành nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Ngày 17/5/2021 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU “về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”.
Đây là một trong những Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, đặt trọng tâm và hướng đến vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán trong chỉ đạo thực hiện các chính sách dân tộc và đầu tư phát triển đối với vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị.
Giai đoạn 2021-2025, tỉnh Quảng Ninh đã huy động trên 120.000 tỷ đồng thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, các chương trình mục tiêu quốc gia. Điểm nổi bật của Quảng Ninh là ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp và vốn ngân sách nhà nước lồng ghép chỉ chiếm khoảng 16%, vốn huy động xã hội hóa chiếm đến 84%. Như vậy, từ một đồng ngân sách nhà nước đầu tư, Quảng Ninh đã huy động được trên 5 đồng ngoài ngân sách để đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TU.
Đáng chú ý, sự hình thành và vận hành hiệu quả của các cụm công nghiệp tại các khu vực vùng DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo không thể tách rời chiến lược đầu tư hạ tầng đồng bộ, một trong những trụ cột quan trọng mà Quảng Ninh đang triển khai để tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp, dịch vụ vùng đặc thù. Hạ tầng đồng bộ cũng đã góp phần bảo đảm liên thông, tổng thể, thúc đẩy liên kết vùng và nội vùng, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các mô hình sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp trong vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo.
Giai đoạn 2021-2025, tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ưu tiên dành nguồn lực lớn từ ngân sách nhà nước, tập trung đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược, đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng động lực với vùng khó khăn, gắn kết với các trung tâm kinh tế, trung tâm đô thị, các vùng động lực, khu kinh tế, khu công nghiệp nhằm thúc đẩy vùng phát triển nhanh bền vững; tiếp tục đầu tư, nâng cấp công trình thủy lợi, công trình phòng chống thiên tai, hạ tầng điện, cấp nước thiết chế văn hóa, giáo dục đào tạo, trang thiết bị y tế.
Tỉnh tập trung ưu tiên, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông kết nối vùng động lực với vùng khó khăn, gắn kết với các trung tâm kinh tế, trung tâm đô thị, các vùng động lực, khu kinh tế, khu công nghiệp nhằm tăng cường mở rộng liên kết, khai thác lợi thế kinh tế, thúc đẩy vùng phát triển nhanh bền vững; trong đó, ưu tiên phát triển hạ tầng kết nối mang tính động lực giữa các cửa khẩu: Hoành Mô - Bắc Phong Sinh - Móng Cái.
Đồng thời, hoàn thành 15/15 dự án giao thông động lực, kết nối vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo bằng nguồn vốn bố trí trực tiếp thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU như: Đường giao thông nối từ trung tâm xã Đại Dực cũ sang trung tâm xã Đại Thành cũ (nay thuộc xã Đông Ngũ); đường giao thông từ trung tâm huyện Đầm Hà cũ (nay là xã Đầm Hà) đi xã Quảng An cũ (nay thuộc xã Quảng Tân); đường tỉnh 341 (Quốc lộ 18C) từ Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái đến Khu kinh tế cửa khẩu Bắc Phong Sinh, giai đoạn 2…
UBND tỉnh phê duyệt và triển khai thực hiện Đề án cải tạo, nâng cấp giao thông nông thôn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2024-2025, định hướng đến năm 2030 (trong đó giai đoạn 2024-2025 tập trung cải tạo, nâng cấp 73 danh mục công trình giao thông nông thôn, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo).
Để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các CCN, tỉnh Quảng Ninh đã chú trọng làm tốt công tác cung cấp thông tin quy hoạch, chỉ dẫn địa lý, vận dụng linh hoạt cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp đến đầu tư, đồng thời tăng cường gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính, quảng bá, xúc tiến kêu gọi đầu tư, trên cơ sở đó chọn lọc thu hút các dự án đầu tư chất lượng, có tính bền vững. Đồng thời, hạ tầng kỹ thuật các CCN trên địa bàn tỉnh từng bước được đầu tư đồng bộ, tạo quỹ đất sạch thu hút đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Tỉnh còn tập trung chỉ đạo, hỗ trợ đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng thông tin truyền thông cơ sở. Đến nay, 100% các thôn, bản trên địa bàn xã đã được phủ sóng điện thoại di động. Tỷ lệ dân số được phủ sóng mạng di động 4G đạt 100%. Song song với đó, xóa các vùng lõm về sóng truyền hình và điện thoại di động; duy trì 100% số hộ dân được sử dụng điện an toàn và nâng cao chất lượng điện.
Bên cạnh đó, tiếp tục chỉ đạo đầu tư, nâng cấp, phát triển hạ tầng thương mại nông thôn, vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo, đáp ứng nhu cầu giao thương, mua sắm hàng hoá của nhân dân, khách du lịch. Phấn đấu đến năm 2030 các xã thuộc vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh có hệ thống kết cấu kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, liên thông, tổng thể, kết nối thuận lợi với các vùng phát triển của tỉnh.
Thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó: Phát triển hạ tầng thủy lợi phục vụ phát triển sản xuất (cải tạo, nâng cấp các công trình thủy lợi đã được đầu tư từ lâu, đến nay đã xuống cấp, không đảm bảo phục vụ tưới tiêu và đầu tư mới các công trình thủy lợi để mở rộng, nâng cao năng lực, điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất).
Đồng thời chú trọng đầu tư, cải tạo, nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi đến nay đã xuống cấp và chưa đáp ứng được yêu cầu về lưu thông, kết nối vùng, nội vùng, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân…
Phát triển công nghiệp, dịch vụ tại các vùng đặc thù như miền núi, biên giới, hải đảo ở Quảng Ninh không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết mà còn là hướng đi chiến lược mang tính lâu dài. Khi các chính sách đầu tư hạ tầng được đồng bộ, nguồn lực được tập trung và phát huy hiệu quả, cùng với sự đồng hành của người dân và doanh nghiệp, vùng đặc thù sẽ ngày càng khẳng định vai trò là động lực mới cho sự phát triển kinh tế, xã hội của toàn tỉnh. Thành công trong việc phát triển công nghiệp, dịch vụ không chỉ góp phần nâng cao đời sống nhân dân mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, bao trùm trong tương lai.