Đến với những thôn, xóm vùng đồng bào DTTS ở Quảng Ninh, nhiều người không khỏi ngỡ ngàng trước sự đổi thay về cơ sở hạ tầng, cũng như đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Những con đường lầy lội ngập bùn đất trước kia, giờ đã được mở rộng, trải nhựa, bê tông phẳng lỳ. Những căn nhà cũ được thay thế bởi những ngôi nhà kiên cố thấp thoáng sau rừng cây xanh lá. Những mô hình kinh tế mới đang ngày càng phát triển, giúp người dân thoát nghèo, ổn định đời sống, nâng cao thu nhập.

Quyết tâm thoát nghèo
Xuất phát điểm là một hộ nghèo trên địa bàn xã Thanh Lâm (nay là xã Kỳ Thượng), ông Chìu Văn Năm giờ đang có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm từ mô hình chăn nuôi bò. Ông Năm tâm sự: Trước đây gia đình tôi khó khăn đủ đường, làm lụng quanh năm suốt tháng vẫn không đủ ăn, cái nghèo cứ đeo bám gia đình mãi. Với quyết tâm thoát nghèo, tôi luôn trăn trở tìm hướng đi mới để phát triển kinh tế.
Từ những chủ trương, chính sách đặc thù của Đảng và Nhà nước về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi, ông Năm đã mạnh dạn vay vốn để mua 2 con bò giống về nuôi. Lúc đó, đối với ông Năm, 2 con bò là tài sản vô cùng quý giá, vì thế ông chăm sóc rất cẩn thận và mong ước đó là hướng đi đúng của gia đình để thoát nghèo.

Nhờ sự cần cù, chịu khó, cùng sự hỗ trợ của Hội Nông dân xã Thanh Lâm (cũ) ông Năm đã được tham gia các lớp học về chăn nuôi, phát triển sản xuất, tập huấn về khoa học kỹ thuật. Nhờ có kiến thức trong chăn nuôi và chủ động phòng chống dịch bệnh, đến nay mô hình chăn nuôi bò của gia đình ông Năm đã phát triển lên hơn 40 con. Ông Năm chia sẻ: Để có thể chăm sóc tốt đàn bò, tôi đã tích cực tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi. Từ đó, tôi nắm bắt được kỹ thuật, cũng như cách phòng ngừa dịch bệnh trên đàn vật nuôi. Tôi hiện có thể tự tay tiêm phòng cho đàn bò của gia đình mình.
Sau thời gian kiên trì chăn nuôi, mỗi năm đàn bò của gia đình ông Năm sinh sản được 15-17 con bê, nhờ đó giúp gia đình ông thoát khỏi tiêu chí hộ nghèo. Mỗi năm gia đình ông Năm xuất bán 12-15 con bò thương phẩm, thu về 150-200 triệu đồng. Từ đầu năm đến nay ông đã bán được 8 con bò giống với giá 16-17 triệu đồng/con. Hiện gia đình ông Năm còn chủ động quy hoạch và trồng 2.000m2 cỏ để đảm bảo nguồn thức ăn cho đàn bò. Bên cạnh đó, sau mỗi vụ gặt, gia đình ông cũng tích trữ rơm, rạ để làm thức ăn cho bò vào mùa đông.

Đến thăm gia đình ông Sằn Văn Cắm ở xã Điền Xá, phóng viên được nghe kể về một thời gian khó của gia đình khi xoay sở đủ việc để kiếm kế sinh nhai hằng ngày. Ông Cắm kể rằng trước đây mặc dù có diện tích đất đồi rất lớn, nhưng người dân ở Điền Xá chưa biết tận dụng lợi thế để phát triển kinh tế, nên đời sống rất khó khăn. Khi có được sự quan tâm của các cấp chính quyền tạo điều kiện người dân để vay vốn sản xuất, nhiều gia đình mới mạnh dạn vay vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Ông Cắm tâm sự: Tôi là một trong những hộ đầu tiên của xã Hà Lâu (cũ) mạnh dạn vay vốn đầu tư nuôi thử nghiệm giống gà Tiên Yên để mong thoát nghèo. Từ 500 con gà giống lúc đầu, đến nay sau khi mở rộng quy mô chăn nuôi, tôi đã xuất ra thị trường hơn 10.000 con gà thương phẩm mỗi năm. Với nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, nuôi đúng quy trình, đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nên gần như tôi không phải lo đầu ra của sản phẩm. Những năm gần đây, đường sá được đầu tư, bê tông hóa đến tận thôn, bản, nên công việc làm ăn buôn bán của người dân chúng tôi cũng thuận tiện hơn, thương lái đến tận nơi thu mua nhiều hơn. Gia đình tôi không chỉ thoát nghèo, cuộc sống ngày càng khấm khá hơn, thu nhập bình quân của gia đình khoảng 600 triệu đồng/năm.
Với việc triển khai nhiều mô hình kinh tế hiệu quả, đời sống của người dân vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh đang ngày càng được nâng cao. Bà con đã biết nỗ lực vươn lên, thay đổi tư duy để hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo. Những thôn, bản ngày xưa được ví như “vùng đất khó một thời” giờ đã “thay da, đổi thịt” hoàn toàn. Thôn, làng với diện mạo mới, sức sống mới đang dần hiện rõ giữa núi rừng.
Giờ đây, trong câu chuyện của nhiều người không chỉ nghĩ đến đủ ăn, đủ mặc như trước đây, mà họ còn nhắc nhiều đến cách làm ăn phát triển kinh tế, xây nhà, mua xe ô tô, nuôi con cái học hành, trưởng thành.
Hướng đến hạnh phúc của nhân dân
Nhằm nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch sinh hoạt, giữa năm 2022, hệ thống trạm xử lý nước sạch hồ chứa nước Khe Mười tại thôn Khe Sâu, xã Nam Sơn (nay là xã Ba Chẽ) được triển khai xây dựng với tổng kinh phí gần 15 tỷ đồng. Công suất thiết kế 1.022m³/ngày đêm.

Sau thời gian khắc phục khó khăn về địa hình đồi núi để thi công, tháng 10/2023 công trình đã hoàn thành. Đường ống và đồng hồ nước đã được đấu nối cung cấp nước sạch cho nhiều hộ dân trên địa bàn. Người dân phấn khởi, vui mừng vì đã có nguồn nước sạch để dùng, không còn phải xuống tận khe suối lấy nước về sử dụng, hay sử dụng nước giếng khoan nữa.
Bà Trần Thị Dung (xã Ba Chẽ) chia sẻ: Trước đây gia đình tôi sử dụng nước giếng khoan, tuy nhiên nguồn nước này có nhiều cặn, khi sử dụng tôi rất lo lắng vì không đảm bảo vệ sinh. Khi có nguồn nước từ công trình nước sạch về tận nhà, tôi rất phấn khởi, yên tâm sử dụng vì đảm bảo sức khỏe của gia đình.
Trong suốt hành trình phát triển, Quảng Ninh luôn xác định nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân là mục tiêu của sự phát triển bền vững. Từ đó, tỉnh đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều chính sách riêng có để vùng đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch vùng, miền, chất lượng đời sống của nhân dân được nâng cao.

Ngày 17/5/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Đây là nghị quyết đầu tiên và chiến lược, thể hiện sự quyết tâm của hệ thống chính trị toàn tỉnh trong việc xây dựng, phát triển vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo một cách bền vững trên mọi lĩnh vực, nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho người dân; từng bước hiện thực hóa khâu đột phá về phát triển văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh, gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh.
Giai đoạn 2021-2025, riêng nguồn vốn đầu tư công ngân sách tỉnh hỗ trợ trực tiếp các địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đã đầu tư 785 công trình, dự án; trong đó có 301 dự án giao thông, 125 dự án thủy lợi, 56 dự án nước sinh hoạt, 64 dự án giáo dục, 2 dự án y tế, 138 dự án văn hóa, 25 dự án điện, 2 dự án nhà công vụ, 72 dự án chỉnh trang khu dân cư.
Tỉnh cũng đầu tư sửa chữa, nâng cấp 24 trường học các cấp; hỗ trợ các địa phương đầu tư mới các trường theo tiêu chí chất lượng cao; hoàn thiện đưa vào sử dụng 3 công trình y tế lớn và nâng cấp các thiết chế y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện và cơ sở phục vụ tốt chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đến nay, 100% thôn, bản vùng đồng bào DTTS có nhà văn hóa. Các cơ chế, chính sách, nhất là về y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, giải quyết việc làm, tín dụng chính sách xã hội đều được triển khai kịp thời, hiệu quả.
Thu nhập bình quân đầu người ở các xã vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn tỉnh năm 2024 đạt 83,79 triệu đồng, tăng hơn 40 triệu đồng so với năm 2020. Các mô hình kinh tế tập thể, HTX, doanh nghiệp vùng cao phát triển mạnh. Toàn tỉnh có 768 HTX nông nghiệp, 432 sản phẩm OCOP đạt 3-5 sao. Phát triển rừng bền vững, nông nghiệp sinh thái, chăn nuôi gia súc, thủy sản ven biển theo hướng hiện đại cũng được triển khai đồng bộ.
Việc triển khai các chương trình, dự án đã thổi một luồng gió mới đến với vùng đồng bào DTTS trên địa bàn Quảng Ninh. Qua đó, nhiều vùng đất khó khăn, cằn cỗi trước đây nay đã đổi thay; tư duy, tập quán canh tác của bà con cũng được đổi mới mạnh mẽ.