Ký ức của họ có tầng than bát ngát, có hình ảnh người thợ mỏ vất vả ngày đêm lên tầng cao, xuống lò sâu khai thác nguồn vàng đen quý giá. Ký ức của họ cũng có bao ngày đạn bom và hình ảnh người chiến sĩ nơi chiến trường miền Nam hay vùng cao biên giới vùng Đông Bắc. Họ chính là những công nhân ngành Than, đi ra từ than. Và khi Tổ quốc lâm nguy, họ sẵn sàng rời xa quê hương, ôm cây súng theo Binh đoàn Than vào Nam chiến đấu hay mang lời ca, tiếng đàn của mình tới động viên tinh thần, tiếp lửa cho những chiến sĩ trên khắp các mặt trận. Ngày trở về, họ lại giản dị như bao người với những lo toan đời thường, hiện thực hoá những ước mơ còn dang dở năm xưa. Cuộc sống mỗi ngày đổi thay, tươi đẹp hơn nhưng trong lòng họ thì những ký ức chiến trường xưa không bao giờ phôi pha.
Nặng lòng với chiến trường xưa
Cựu binh Nguyễn Văn Thiềng (hiện trú tại phường Hà Lầm) là chiến sĩ Tiểu đoàn 386, Binh đoàn Than khi 22 tuổi. Ông cầm súng chiến đấu trên chiến trường trong 2 năm, tham gia 8 trận đánh càn và đánh đồn, sau đó bị thương và bị địch bắt. Năm 1973, ông được trao trả tù binh và phục viên.
Ông Thiềng kể, ngày đó để được nhập ngũ, tôi viết đơn tình nguyện bằng máu, rồi trốn lãnh đạo phòng kế toán của Công ty Vật liệu kiến thiết Quảng Ninh (nay không còn), nơi tôi công tác để đi nộp đơn và khám tuyển. Thế hệ chúng tôi say mê những bài hát thúc giục ra chiến trường, như: “Bài ca may áo”, “Đường cày đảm đang”, “Trên đường tiếp vận”, “Quảng Bình quê ta ơi", “Bài ca săn máy bay”... Tôi rất thuộc những câu hát “Rừng dừa mượt mà đang in những dấu chân ta. Người đi săn không săn chim chóc trong rừng. Mà đi săn bao chim sắt trên trời hòng bắn giết dân ta. Trông lên không gian, súng ta lăm lăm trong tay. Ta giữ cho bầu trời xanh tươi mãi mãi. Xanh tươi mãi mãi những chiều mây bay… Những giai điệu ấy hào hùng, thấm đẫm trong thế hệ chúng tôi nên khi có cơ hội là tôi xin tòng quân ngay.

Sau khi huấn luyện tại Nho Quan (Ninh Bình), ông Thiềng và đồng đội hành quân thẳng vào chiến trường miền Nam, hội quân với lực lượng du kích Long An, Mỹ Tho để đánh đồn và chống càn. Trận đầu tiên của tôi ở Tân Trụ (Long An), ông Thiềng kể, nhìn thấy lính Mỹ cao lớn gấp 2 mình, bặm trợn, trên tay, trên người toàn súng đạn tôi không khỏi e sợ. Nhưng du kích địa phương của mình “cứng” lắm, trước đó đã rèn dạy chúng tôi, trong khi đánh cũng yểm trợ nên chúng tôi bắt kịp đồng đội để chiến đấu. Rồi khi có những tên lính Mỹ trúng đạn gục xuống thì tinh thần chúng tôi cao hơn hẳn, kiên dũng đánh giáp lá cà…
Long An, Mỹ Tho những năm 1968, 1969 là địa bàn đánh du kích của ta. Người dân ở đây bao bọc chở che chiến sĩ, nhờ vậy mà ta liên tục tiêu hao được lực lượng địch. Để áp chế, lính Mỹ thường tổ chức những trận càn vào tận thôn ấp. Khi đó chúng dồn quân lực mạnh với máy bay, xe tăng và lính bộ. Có những trận càn, nhiều chiến sĩ ta hy sinh, bị thương hoặc bị bắt. Trận đánh càn tại Mỹ Tho vào tháng 11/1969, một đồng đội của tôi trúng đạn gục ngay trên vai tôi, còn tôi bị địch bắt. Trong 2 năm sau đó, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ chống chiêu hồi trong các khu giam giữ của địch cho đến năm 1973 được trao trả tù binh.
Trở về đời thường, cựu binh Nguyễn Văn Thiềng mang trên cơ thể nhiều vết thương và di chứng chất độc da cam nặng nề. Vợ ông, 6 lần sinh nở mà chỉ mang được 2 con về nhà. Rồi thì một đứa mất khi còn trẻ, đứa còn lại thần kinh không bình thường. Nỗi đau là vậy, nhưng vượt lên tất cả, ông vẫn tiếp tục phát huy tinh thần anh Bộ đội Cụ Hồ, tiên phong trong mặt trận lao động sản xuất cũng như công tác xã hội. Ông khẳng định, chính những ngày tháng xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ấy đã cho tôi động lực, sức mạnh, bản lĩnh, là niềm tự hào của một người thợ Vùng mỏ và người con đất Việt.
Dũng sĩ trăm trận thắng
Cuối tháng 7/1967, làng quê Liên Hoà của huyện Yên Hưng (nay là phường Liên Hoà) có 09 thanh niên theo tiếng gọi “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” đã gia nhập Tiểu đoàn 9, Binh đoàn Than, trong đó có ông Nguyễn Hữu Dụng, khi đó vừa học xong chương trình cấp 2 phổ thông. Ông Dụng có gần 08 năm liên tục góp mặt trên chiến trường Tây Nguyên, trong quân số của Trung đoàn 95, chuyên đánh giao thông.

Ông Dụng cho biết: Tuyến đường chúng tôi bám đánh là đường 9, đoạn từ Quy Nhơn qua Pleiku đến Kon Tum. Chúng tôi đánh chặn xe tăng, xe bồn, xe cơ giới của địch. Tổng thể trên 100 trận.
Đường 9 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ là tuyến đường huyết mạch mà địch sử dụng để vận chuyển quân, vũ khí và lương thực đến các mặt trận miền Nam. Mỗi lần vận chuyển trên đường, địch thường bố trí nhân vật lực và phương án kỹ càng để đối phó với lực lượng ta. Cũng vì thế mà những lần đụng độ thường xảy ra thương vong rất lớn. Ông Dụng cho biết: Có khi chúng ta mất nguyên khẩu đội pháo. Những lần như thế địch lại giở bài “phục xác chết”, chỉ chờ ta đến lấy xác đồng đội là tiêu diệt.
Riêng khẩu đội pháo chúng tôi gồm 5 anh em, tôi là pháo thủ số 1. Một lần sau khi đã tiêu diệt mục tiêu địch, chúng tôi bị tăng đuổi rất sát, đồng đội còn bị ngã xuống vùng nước sâu. Trong khi bản thân bị thương, tay ôm nòng pháo 36kg và đường rừng cây cối đan cài rất khó di chuyển, nhưng thật may mắn trong lúc nguy nan chúng tôi vẫn cứu được đồng đội, bảo toàn được vũ khí, nhanh chóng lợi dụng địa hình núi rừng để rút lui an toàn.
Trong hơn 100 trận đánh giao thông, người lính trẻ quê Liên Hoà Nguyễn Hữu Dụng luôn phát huy được sự nhanh nhạy, sáng tạo, kiên gan để bảo vệ mình, bảo vệ vũ khí và hỗ trợ đồng đội. Chiến tích ông cùng đồng đội bắn cháy đoàn xe bồn chở xăng của địch được Trung đoàn 95 ghi lại. Ông nói, ngọn lửa cao như toà nhà cao tầng bây giờ, cháy đến ngày hôm sau mới tắt.

Từ những chiến công đạt được, ngay trong chiến trường, ông Nguyễn Hữu Dụng đã 7 lần được nhận giấy khen, 5 lần được nhận bằng khen, 4 lần được trao danh hiệu Chiến sĩ diệt xe tăng, Chiến sĩ diệt xe cơ giới, Chiến sĩ diệt Mỹ, 3 lần được nhận Huân chương Kháng chiến, Huân chương Chiến sĩ giải phóng, Huân chương Chiến công.
Trận đánh cuối cùng của ông Dụng là trận bảo vệ sân bay Nha Trang trong khi các chiến sĩ ta tiến vào Dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của Mỹ, Nguỵ Sài Gòn. Ông Dụng kể: "Đến ngày 30/4, thời khắc đài phát tin chiến thắng, đất nước chính thức giành độc lập, niềm vui như vỡ òa, tôi cùng đồng đội ào ra tuyến đường lớn thênh thang bước đi với cảm giác tự do...".
Hiện nay, do những vết thương chiến tranh, sức khoẻ ông Dụng không còn tốt. Ông bị nhiều bệnh lý nền và đã 2 lần đột quỵ. Đồng đội luôn đến với ông để động viên, chia sẻ. Góc hiên nhà ông (ở phường Hồng Gai) trở thành bàn trà của những người lính già thường xuyên cùng nhau ôn lại kỷ niệm chiến trường, nhớ về một thời hoa lửa tươi đẹp của xanh xuân, tuổi trẻ, thời gian khổ, hy sinh nhưng cũng là thời đẹp nhất của đời người.
Tiếng hát ngân vang, bền bỉ với thời gian
NSND Quang Thọ (SN 1948) là giọng ca lớn của dòng nhạc chính thống và âm nhạc Việt Nam. Sự nghiệp âm nhạc của ông đã trải dài suốt nửa thế kỷ qua và khởi đầu chính là từ phong trào ca hát quần chúng của ngành Than.

Ông từng là chàng công nhân thợ điện của mỏ than Cọc Sáu vào những năm 60 của thế kỷ trước. Khi ấy, Vùng mỏ còn nhiều gian khó và bị giặc Mỹ bắn phá ác liệt. Giọng hát của ông đã sớm nổi tiếng khi ông tham gia tích cực trong phong trào văn nghệ xung kích của ngành Than. Ông từng kể rằng, vào ngày chiến thắng trận đầu của quân dân Vùng mỏ 5/8/1964, ông có mặt trên đồi pháo của mỏ Cọc Sáu hát cho đội tự vệ đang trực chiến thì còi ủ và tiếng loa phóng thanh báo máy bay địch đang tới vang lên. Chứng kiến sự anh dũng của các chiến sĩ tự vệ, ông cũng thấy tận mắt chiếc máy bay bị bắn cháy sà xuống phía vịnh Bái Tử Long…
Giữa những ngày khói lửa, đạn bom của Vùng mỏ những năm Mỹ bắn phá ác liệt như thế, ông và NSND Lê Dung khi ấy là một đôi song ca ăn ý đã hát cho công nhân mỏ nghe để động viên tinh thần người thợ, chiến sĩ ngành Than, làm vơi đi sự vất vả của người thợ, sự gian khổ, ác liệt của chiến tranh. Họ đã hát giữa công trường, hát ngay cả trong những căn hầm, hát dưới màn đêm không ánh sáng đèn, chỉ có ánh chớp và tiếng nổ của bom đạn. Nắng, gió, bụi than đất mỏ tôi luyện giọng ca, con người Quang Thọ. Ông từng kể rằng có những lần đi hát cùng anh chị em, phải đứng trên xe thùng đi trên những con đường dốc, xóc từ các mỏ Mông Dương đến Uông Bí. Lại có những hôm ông và các ca sĩ vừa đi, vừa hát các buổi biểu diễn từ 6 giờ sáng cho đến 10 giờ đêm…
Có lẽ chính ký ức những năm tháng ấy khiến Quang Thọ luôn giữ được những cảm xúc hết sức đặc biệt khi hát về ngành Than, về người thợ mỏ, kể cả sau này khi ông đã rời Vùng mỏ, với những ca khúc hào hùng, sống mãi với vùng than, như: "Tôi là người thợ mỏ" (Hoàng Vân), "Những ngôi sao ca đêm" (Phạm Tuyên), "Trên đỉnh Đèo Nai em hát" (Trần Quý), "Nhịp máy khoan" (Trọng Bằng)...

Không chỉ hát trên các công trường, phân xưởng, các trọng điểm chiến đấu của lực lượng tự vệ ngành Than, đầu năm 1971, ông đã tham gia đoàn văn công xung kích của Vùng mỏ đi biểu diễn phục vụ cán bộ, chiến sĩ đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia. Ông từng kể, lúc đó, ông 24 tuổi, hành quân như bộ đội, vai mang ba lô con cóc 5kg, vác súng trường, khoác theo một cây đàn ghi ta. Ngày đó, tâm thế lên đường không biết có ngày trở lại, nên mọi người luôn thương yêu, chia sẻ với nhau. Nhà viết kịch Tất Thọ, thành viên trong đoàn, nhớ lại: Quang Thọ khi ấy đã có giọng hát rất hay. Anh chủ yếu hát các ca khúc mới nhưng vì tính chất đa năng của đoàn khi ấy nên có khi anh còn tham gia diễn chèo, kịch ngắn với anh em…
Mang lời ca, tiếng hát đi vào cuộc kháng chiến của dân tộc đã trở thành ký ức thiêng liêng theo ông suốt cuộc đời. Sau khi từ Trường Sơn ra vào năm 1972, Quang Thọ được cử đi học tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Sau này, ông trở thành nghệ sĩ của Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam rồi giảng viên, Chủ nhiệm Khoa Thanh nhạc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Thành danh, tiếng hát của Quang Thọ từng đoạt nhiều giải thưởng và vang xa ở hàng chục quốc gia trên thế giới trong các chuyến lưu diễn. Ông vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân vào năm 2001. Sống xa Vùng mỏ nhưng bao giờ, ông cũng dành tình cảm đặc biệt cho vùng đất này và mỗi khi trở về với quê hương, tiếng hát của ông vẫn luôn ngân vang, hào sảng với những ca khúc ngợi ca vùng than, ngợi ca người thợ mỏ…
Giọng oanh vàng của nữ công nhân mỏ
Nghệ sĩ Vùng mỏ Thanh Việt (SN 1950) sinh ra tại huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay thuộc TP Hải Phòng), rồi theo cha mẹ chạy loạn ra trú ngụ ở Hà Lầm. Vì nhà nghèo nên Thanh Việt theo cha mẹ đi nhặt than từ rất sớm, sau này xin vào mỏ Hà Lầm làm công nhân.

Nhờ có sắc vóc tốt, Thanh Việt được huy động vào đội văn nghệ xung kích của mỏ. Tiếng hát của bà cùng đội văn nghệ xung kích của Than Hòn Gai khi đó đã làm nên những chấm phá sinh động cho bức tranh phong trào ca hát của Vùng mỏ khi ấy. Bà cùng với các nghệ sĩ Văn Anh, Biên Hòa, Trần Câu, Văn Tuất, Phan Cầu, Trọng Khang, Kim Oanh, Thu Hà, Ngọc Diện, Văn Quý, Đào Cường, Đức Nhuần, Thanh Tĩnh... đã nhiều lần tham gia biểu diễn phục vụ trên các nhà máy, công trường, hầm mỏ và đi phục vụ các chiến sĩ đóng quân ở khu vực biên giới, hải đảo Quảng Ninh.
Tham gia sôi nổi trong hoạt động ca hát phong trào của ngành Than, giọng hát tuyệt vời của Thanh Việt có cơ hội bay cao, vang xa cả ở trong nước và quốc tế với nhiều giải thưởng đáng quý. Năm 1967, tại Hội diễn văn nghệ quần chúng của ngành Than, Thanh Việt khi ấy mới 17 tuổi đã chinh phục được Ban Giám khảo cùng khán giả và đoạt Huy chương vàng đơn ca nữ với bài hát "Đường ta đi dài theo đất nước" (nhạc sĩ Vũ Trọng Hối). Từ tấm Huy chương vàng đầu tiên này, bà tiếp tục tham gia và giành được rất nhiều giải thưởng cao, trong đó có tới hơn 20 huy chương vàng và giải A trong các kỳ hội diễn trong suốt mấy chục năm hoạt động nghệ thuật bền bỉ của mình. Đơn cử như giải A khi tham gia Liên hoan sóng phát thanh toàn miền Bắc năm 1968 với bài hát "Bài ca gửi anh thợ lò" (nhạc sĩ Phạm Dũng) cùng với các ca sĩ đã thành danh lúc đó, như: Quốc Đông, Quang Thọ, Ngọc Bé, Minh Đức...; Huy chương vàng trong cuộc thi Giọng hát Người cao tuổi toàn quốc năm 2000 với bài hát "Đất nước lời ru" (nhạc sĩ Văn Thành Nho).

Gắn bó với vùng than, với những người thợ mỏ, Thanh Việt cũng thành danh với chính những ca khúc về vùng đất, con người nơi đây tự nhiên như máu thịt, như hơi thở của mình. Có thể kể tới nhiều bài hát được bà thể hiện rất thành công, như: "Cái duyên cô gái vùng than" (nhạc sĩ Vũ Trọng Hối), "Chiều biên giới", "Trên biển trời Đông Bắc" (nhạc sĩ Trần Chung), "Đất mỏ quê ta" (nhạc sĩ Đức Minh), "Tàu anh bay qua vùng than" (nhạc sĩ Lê Nguyên Thêm)...
Năm 1986, Thanh Việt là một trong 10 người đầu tiên ở Quảng Ninh được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Vùng mỏ. Cũng vào năm đó, bà được mời đi biểu diễn ở một số nước, như: Liên Xô, Tây Ban Nha, Pháp. Năm 1991, Nghệ sĩ Vùng mỏ Thanh Việt được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Sau này, dù đã nghỉ hưu nhưng bà vẫn nhiệt tình tham gia trong các phong trào văn nghệ tại địa phương.