21
11
Bạn đọc/
/ban-doc
3348718
1494427
Số lượng biên chế cán bộ, công chức không phải lãnh đạo
so-luong-bien-che-can-bo-cong-chuc-khong-phai-lanh-dao
news

Đại hội Đảng

Nhiệm kỳ 2025-2030

Số lượng biên chế cán bộ, công chức không phải lãnh đạo

Bạn đọc hỏi: Số lượng biên chế cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý sau sắp xếp tinh gọn bộ máy quy định ra sao?

Bạn đọc hỏi: Số lượng biên chế cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý sau sắp xếp tinh gọn bộ máy quy định ra sao?

Số lượng biên chế cán bộ, công chức không phải lãnh đạo sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy được căn cứ theo Công văn 7968/BNV-CCVC. Ảnh minh họa: Hải Nguyễn.

Công ty Luật TNHH YouMe cho biết: Căn cứ theo tiểu mục 3 Mục 3 Công văn 7968/BNV-CCVC quy định:

Đối với cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý:

Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy hình thành sau sắp xếp đề xuất phương án sắp xếp, bố trí đối với cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với nhiệm vụ cán bộ, công chức, viên chức đang đảm nhiệm trước khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất;

Trường hợp không còn nhiệm vụ thì có thể bố trí sang cơ quan, tổ chức, đơn vị khác phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức hoặc giải quyết chế độ chính sách theo quy định của Chính phủ.

Trước mắt, số lượng biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị mới tối đa không vượt quá tổng số cán bộ, công chức, viên chức hiện đang có mặt trước khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất, nhưng bộ, ngành, địa phương phải xây dựng phương án giảm biên chế, thực hiện theo quy định chung của Bộ Chính trị trong thời hạn 5 năm (kể từ ngày cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án).

Như vậy, số lượng biên chế cán bộ công chức viên chức không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý sau sắp xếp tinh gọn bộ máy của cơ quan, tổ chức, đơn vị mới tối đa không vượt quá tổng số cán bộ, công chức, viên chức hiện đang có mặt trước khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất, nhưng bộ, ngành, địa phương phải xây dựng phương án giảm biên chế, thực hiện theo quy định chung của Bộ Chính trị trong thời hạn 5 năm (kể từ ngày cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án).

Cùng chuyên mục