21
18
/
1101453
Những tâm hồn rung cảm và ngòi bút sắc bén
longform
Những tâm hồn rung cảm và ngòi bút sắc bén

Cover

Trong dòng chảy báo chí Quảng Ninh, có những cây bút tài hoa đã cống hiến trọn vẹn trái tim và trí tuệ cho nghiệp viết, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc và đồng nghiệp. Là nhà báo cũng là nhà văn, nhà thơ, sự hòa quyện giữa chất thi ca bay bổng và sức nặng của ngòi bút báo chí đã giúp họ tạo nên những tác phẩm giá trị, góp phần khẳng định vị thế của báo chí - văn chương Quảng Ninh trong đời sống tinh thần của nhân dân.

Ảnh trong văn bản

Trưởng thành từ chính vùng Đất mỏ, từng là công nhân mỏ Đèo Nai, nhà báo Trần Ngọc Tảo đến với thơ ca bằng trái tim thấm đẫm mồ hôi, bụi than và cả những tiếng nổ vang vọng từ lòng đất. Năm 1976, bài thơ “Những ngôi sao trong lòng đất” ra đời, là tiếng nói trong trẻo đầu tiên của ông dành cho người thợ mỏ. Ở đó, người thợ không chỉ hiện lên trong dáng vẻ lam lũ, mà lung linh như những vì sao đẹp đẽ, thầm lặng mà kiêu hãnh qua những câu thơ:

Ngọn đèn như người bạn đường dẫn lối

Phá những điều bí ẩn của đêm
 
Vào trong lò niềm vui nhân lên

Khi bắt gặp những vì sao trên vầng trán thợ 

Gắn bó sâu sắc với những người bạn là thợ mỏ, Trần Ngọc Tảo thường mang thơ của mình xuống lò, đọc giữa giờ nghỉ ca, lắng nghe từng góp ý, cân nhắc từng câu, từng chữ. Với ông, thơ không làm ra để trưng bày, mà để sống, sống giữa ánh đèn lò, giữa âm thanh va đập của xẻng cuốc, giữa nhọc nhằn đời thợ. Nhiều bài thơ đã được ông sáng tác bằng tình cảm sâu nặng với nghề mỏ, thợ mỏ như: Vòm trời thợ lò, Lửa than...

Ảnh với chú thích
Nhà báo Trần Ngọc Tảo (đứng giữa) đại diện cho Ban Kinh tế, Báo Quảng Ninh, nhận Huân chương Lao động hạng Ba do Nhà nước trao tặng năm 2001. Ảnh tư liệu

Những người thợ mỏ cũng vô cùng trân trọng cái tình của nhà thơ. Họ thường xuyên mang thơ Trần Ngọc Tảo vào đường lò đọc cho nhau nghe, mỗi khi lao động vất vả những câu thơ hay lại vút lên trước các gương than, động viên, khích lệ nhau sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc. Đúng như Trần Ngọc Tảo đã từng tự bạch: Chỉ đến khi làm công nhân mỏ Đèo Nai rồi làm nghề báo chuyên viết về mỏ, được sống với những người làm than và hơi thở của Vùng mỏ ùa vào tâm khảm - hồn thơ tôi mới có sức sống hơn.

Nhưng Trần Ngọc Tảo không chỉ là một nhà thơ. Ông còn là một nhà báo chiến đấu, một người làm báo luôn sẵn sàng cầm bút bước vào những điểm nóng của đời sống. Chất thơ dịu dàng dường như chẳng hề ngăn trở ngòi bút sắc sảo, đanh thép của ông trong những bài báo về các vấn đề kinh tế, đời sống của công nhân mỏ.

Trong những năm 1998-1999, ngành Than đình đốn sản xuất, thợ mỏ phải ngừng và giãn việc, đời sống vô cùng khó khăn, Trần Ngọc Tảo đã dồn hết tâm trí cho hàng loạt bài viết mang tính chất phản biện, xoáy sâu vào các điểm nghẽn chính sách như: “Ngành Than: Phương án giảm tồn kho - điều gì bất ổn?”, “Tổng Công ty Than Việt Nam: Điều chỉnh lại phương án sản xuất than”, “Sự nỗ lực chưa đủ xoay chuyển tình thế!”, “Giải pháp gì để công nhân cơ khí mỏ thoát khỏi cảnh đói nghèo?”, “Giải thoát bằng cách chuyển đổi công nghệ, tìm dự án để thi công”... Một người bạn vong niên của nhà báo Trần Ngọc Tảo kể lại, lúc đó ông viết như chiến đấu, người gầy rạc đi, không chỉ phản ánh đơn thuần mà bằng ngòi bút sắc sảo đã chỉ thẳng, vạch rõ căn nguyên, đưa ra giải pháp. Đó là ngòi bút của nhà báo có trách nhiệm công dân, biết xót thương, đứng về phía người công nhân bằng lương tâm nghề nghiệp.

Nhà báo Thân Quốc Huấn, nguyên Trưởng ban Chính trị - Xã hội, Báo Quảng Ninh, từng viết Trần Ngọc Tảo chính là “loại thuốc nổ ANFO” mang sức mạnh bền bỉ, bùng nổ, hiệu quả. Bạn bè đặt biệt danh cho ông là “Nhà báo thuốc nổ”, bởi ông thường ký bút danh là T.N.T (trùng với tên một loại thuốc nổ công nghiệp) và bởi những bài viết của ông tuy thoạt đầu “rù rì” nhưng đôi khi lại có sức “công phá”, tạo được “phản ứng dây chuyền” trên công luận….

Ảnh với chú thích
Những bài viết của nhà báo Trần Ngọc Tảo về giai đoạn khủng hoảng của ngành Than trong những năm 1998-1999 đã tạo được "phản ứng dây chuyền" trên công luận.

Ở Trần Ngọc Tảo, người ta thấy một sự dung hòa đặc biệt, là thi sĩ mềm mại, lắng nghe, trân trọng từng lời góp ý của thợ mỏ cho từng câu thơ, nhưng cũng là một nhà báo sắc sảo, không chấp nhận sự mờ nhòe, không nhân nhượng trước cái sai. Tâm hồn ông mềm mại như sương mỏ trong thơ, nhưng cũng cứng cỏi như vỉa đá xám trong báo chí.

Những ngày tháng làm nghề khi còn tại nhân thế, nhà báo, nhà thơ Trần Ngọc Tảo chưa bao giờ tách rời khỏi đời sống thợ mỏ. Từ những vần thơ viết trong lòng đất đến những trang báo đầy trăn trở về cuộc sống người thợ mỏ, Trần Ngọc Tảo, người con của vùng Than đã sống một đời vẹn tròn giữa hai nẻo: Thơ dịu dàng và báo chí dấn thân.

Nhà thơ Trần Ngọc Tảo sinh ngày 9/4/1947, mất ngày 14/11/2008, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Kinh tế - Báo Quảng Ninh, Ủy viên Ban Thường vụ Hội VHNT tỉnh Quảng Ninh, Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh.

Ngoài làm báo, ông là tác giả của nhiều tập thơ: “Khoảng trời thị xã” (1985), “Đêm sáng” (1990), “Cánh diều” (1991), “Hạt vàng” (1992), “Rồng rắn vào thành phố” (1994), “Cưỡi trâu lên trời” (1996), “Sáng chân mây” (2002). Ông từng đoạt Giải thưởng Thơ năm 1983 của Bộ Lâm nghiệp và Hội Nhà văn Việt Nam và được tặng Giải thưởng Văn nghệ Hạ Long.

Ảnh trong văn bản

Nhắc đến báo chí, văn chương Vùng mỏ, không thể không nhắc tới nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ Ngô Tiến Cảnh, người đã dành trọn tâm huyết cho sự nghiệp cầm bút và có những dấu ấn sâu đậm cả trong thơ ca lẫn báo chí. Ông là một trong số những người làm báo mang trong mình tâm hồn thi sĩ, và ngược lại, chất báo chí cũng thấm đẫm trong từng câu thơ, lời nhạc của ông.

Dù quãng thời gian công tác trực tiếp tại Báo Quảng Ninh không dài, chỉ vỏn vẹn ba năm từ 1987 đến 1990, nhưng chính giai đoạn này lại được ông tâm sự là "đáng nhớ" và đã "định hình" nên nhà báo Ngô Tiến Cảnh sau này.

Trong suốt sự nghiệp báo chí kéo dài gần ba mươi năm, ông đã để lại những dấu ấn sâu đậm, được công nhận bằng các giải thưởng danh giá: Giải ba Giải thưởng báo chí toàn quốc năm 2002 với tác phẩm “Một nghị quyết được cuộc sống đặt tên” (cùng với nhà báo Lương Hùng, khi đó là Phó Tổng Biên tập Báo Quảng Ninh); giải nhất trong cuộc vận động sáng tác về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2010 với tác phẩm “Ngược chiều gió bấc”... Những tác phẩm cho thấy sự sắc sảo, tâm huyết và khả năng chuyển tải những vấn đề thời sự, chính trị một cách sâu sắc nhưng không hề khô cứng qua ngòi bút báo chí của ông.

Ảnh với chú thích
Những tác phẩm báo chí và thơ ghi dấu ấn làm nghề của nhà báo, nhà thơ Ngô Tiến Cảnh.

Trong thơ ca, điều dễ nhận thấy nhất ở Ngô Tiến Cảnh là sự kiên định với lý tưởng. Thơ ông không chú trọng nhiều vào cách tân hình thức hay nội dung, nhưng lại có sức lôi cuốn, chinh phục độc giả bởi sự chân thành, ào ạt hết mình trong cảm xúc. Nhà thơ Trần Nhuận Minh từng nhận xét thơ Ngô Tiến Cảnh "mang nhiều tâm huyết, đặc biệt là tính trực tiếp về đề tài, về ngôn ngữ, dám nhìn thẳng vào vấn đề mình nói…".

Sự hòa quyện giữa thơ và báo trong con người Ngô Tiến Cảnh còn thể hiện qua cái tình đồng nghiệp. Nhà báo Phùng Ngọc Dũng, nguyên Trưởng Phòng báo Quảng Ninh cuối tuần, người về làm việc tại Báo Quảng Ninh gần như cùng thời điểm với nhà báo Ngô Tiến Cảnh, chia sẻ rằng hai người dễ dàng thân thiết ngay từ đầu vì cùng là lính trở về và đều thuộc "cánh thơ thẩn". Sự kết nối giữa những tâm hồn yêu thơ đã gắn bó họ trong những năm tháng làm báo.

"Tôi còn nhớ như in chuyến đi Ba Chẽ cuối năm 2000, khi anh Cảnh đã chuyển sang Hội Nhà báo tỉnh. Nhận đơn của một người bạn lính nhờ xác minh vụ tranh chấp đất, chúng tôi lên đường ngay. Sau khi làm việc với chính quyền xã, anh Cảnh nhất quyết đề nghị gặp trực tiếp hai gia đình để kiểm chứng. Không khí căng thẳng khi gia đình bị đơn lớn tiếng xúc phạm, vu cho chúng tôi nhận hối lộ. Tôi ra hiệu giữ bình tĩnh, nhưng anh Cảnh thì đứng thẳng, ánh mắt cương nghị, sẵn sàng đối mặt. Anh không một lời đôi co, nhưng khí chất thì không ai dám lấn tới. Khi gia đình bị đơn xin lỗi, mọi việc xong xuôi, ra xe định về rồi, anh bất ngờ quay lại, móc ví chia tiền cho cả hai gia đình. Tôi ngạc nhiên, anh chỉ cười: “Cho khỏi mang tiếng nhà báo ăn tiền!” - một câu thôi, thể hiện rõ sự trong sạch, tự trọng và khí chất nghĩa hiệp của một nhà báo sống thẳng, viết thật và không bao giờ chịu khuất phục" - nhà báo Phùng Ngọc Dũng bồi hồi nhớ lại.

Ảnh với chú thích
Nhà báo, nhà thơ Ngô Tiến Cảnh trong đêm thơ - nhạc Cẩm Phả ơi... năm 2011. Ảnh tư liệu

Ngoài thơ và báo, Ngô Tiến Cảnh còn có nhiều ca khúc về quê hương Đất mỏ, cho thấy sự sáng tạo không ngừng nghỉ và tình yêu sâu sắc với mảnh đất mình sinh ra và lớn lên. Ca khúc "Hành khúc người làm báo Quảng Ninh" mà ông viết tặng Báo Quảng Ninh ngay trước khi qua đời là tác phẩm âm nhạc chứa chan tâm sự, là sự kết tinh của cả cuộc đời làm báo và làm thơ, hòa chung niềm tự hào về truyền thống "Năm mươi năm tiến bước theo cờ Đảng" của cơ quan ông từng gắn bó.

Nhà báo, nhà thơ Ngô Tiến Cảnh đã sống trọn vẹn với nghề, với đam mê và để lại một di sản đáng quý là tấm gương về một nhà báo tâm huyết và khảng khái, nơi vần thơ và trang báo luôn song hành.

Nhà báo, nhà thơ Ngô Tiến Cảnh sinh ngày 20/5/1950, mất ngày 26/12/2013. Ông đã xuất bản 5 tập thơ: "Trăng" (1990), "Lặng lẽ" (1995), "Lá và Lửa" (2000), "Đồng Vọng" (2005), "Vọng Biển" (2010); bốn lần nhận giải thưởng "Văn nghệ Hạ Long", trong đó tập "Trăng" đoạt giải nhất.

Ông có nhiều ca khúc viết về quê hương Đất mỏ và lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam như “Sao anh, Sao em”, “Cây súng, cây đàn”, “Về với quê anh Cẩm Phả”, “Ngôi sao ca ba”, “Hành khúc người làm báo Quảng Ninh”...

Ảnh trong văn bản

Trong dịp triển lãm 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam, lịch sử báo chí Quảng Ninh và các thành tựu nổi bật của tỉnh, thế hệ nhà báo trẻ chúng tôi có dịp được gặp gỡ, trò chuyện cùng các nhà báo cao tuổi, những tiền bối đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của báo chí Quảng Ninh, trong đó có nhà báo, nhà văn Lê Toán, nguyên Tổng Biên tập Báo Quảng Ninh.

Tuổi ngoài 80, ông vẫn minh mẫn, rắn rỏi và đầy khí chất, giọng kể sang sảng, ánh mắt bừng lên ký ức về những ngày đầu làm báo gian khó nhưng đầy lý tưởng. Ông kể về báo Than - tờ báo Đảng địa phương đầu tiên của Việt Nam, rồi say sưa nói về dấu mốc tự hào khi Báo Quảng Ninh là cơ quan báo Đảng đầu tiên trong cả nước thực hiện chế bản điện tử ngay tại tòa soạn vào năm 2001, một bước đi táo bạo mà đến tận sau này, nhiều tòa soạn khác mới kịp bước theo. 

Ảnh với chú thích
Tổng Biên tập Lê Toán tặng Báo Quảng Ninh cho Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu năm 2001. Ảnh tư liệu.

Việc chế bản điện tử tại tòa soạn thời điểm đó không chỉ là thay đổi về kỹ thuật, mà còn là bước ngoặt thể hiện tư duy đổi mới và tinh thần dám nghĩ, dám làm của những người làm báo thời ấy. Khi chủ động được việc chế bản, thông tin được xử lý nhanh, hệ thống phát hành được mở rộng, nội dung ngày càng phong phú, bạn đọc của báo cũng tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, dịp Tết Nguyên đán năm 2002, Báo Quảng Ninh phát hành số báo Xuân Nhâm Ngọ tới hơn 13.300 tờ, một con số kỷ lục thời bấy giờ.

Theo nhà báo Lê Toán, để có được thành quả ấy, điều quan trọng là phải biết kết hợp giữa tình yêu nghề với năng lực làm nghề. Nhất là trong thời đại kỷ nguyên số hiện nay thì làm báo không thể chỉ bằng lòng nhiệt huyết, mà còn cần có kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về công nghệ. Ông nhấn mạnh rằng, trái tim nhiệt huyết là điều quý giá và vốn có của người làm báo Quảng Ninh, được kế thừa từ các thế hệ đi trước. Để thực sự phát huy được truyền thống ấy trong thời kỳ mới, để người làm báo Quảng Ninh đạt được tầm quốc gia và mang tầm quốc tế, thì sự thiếu vắng trí tuệ và khoa học hiện đại của người làm báo là điều cần phải "căn chỉnh"...

Trong cuộc trò chuyện đầy thân tình, chúng tôi có hỏi vui rằng vừa là nhà văn, vừa là nhà báo, liệu ông yêu văn hơn hay báo hơn. Ông bật cười sảng khoái và bảo tất cả những người làm báo đều có tâm hồn dễ rung động, đều yêu văn chương nghệ thuật. Chỉ có điều tài năng của họ phát lộ lúc nào mà thôi. Chẳng thế mà ở Quảng Ninh có rất nhiều nhà báo sau này trở thành những nhà văn, nhà thơ tên tuổi như: Như Mai, Mai Phương, Lý Biên Cương, Tô Ngọc Hiến, Trần Ngọc Tảo...

Với riêng nhà văn Lê Toán, thời gian làm báo chính là quãng đời tích lũy chất liệu sống quý giá. Sau khi nghỉ hưu không còn bận rộn với công việc quản lý, ông dành trọn vẹn tâm huyết cho sáng tác văn học, đặc biệt là văn học thiếu nhi, thể loại đòi hỏi sự trong trẻo và tinh tế. Ông tâm sự: “Làm báo đã cho tôi nhiều cơ hội tiếp xúc với trẻ em, hiểu thế giới của các em để viết được những trang văn có hồn”. Và ngược lại, văn chương cũng giúp ông làm báo tốt hơn. Từ cách sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, đến khả năng truyền tải thông điệp một cách quyến rũ, lan tỏa.

Ảnh với chú thích
Nhà báo Lê Toán chia sẻ với thế hệ nhà báo hậu bối về lịch sử phát triển của báo chí Quảng Ninh.

Từ nghề báo mà đến với văn chương. Từ cuộc sống mà tìm ra điều để viết. Nhà báo, nhà văn Lê Toán luôn điềm tĩnh, nhẹ nhàng, nhưng mỗi câu nói đều chứa đựng sự sắc sảo, đầy trải nghiệm khi nhắn nhủ với thế hệ làm báo hôm nay: Viết là một hành trình dấn thân. Làm báo là một trách nhiệm. Nhưng viết với tâm sáng, làm báo với trí tuệ - đó mới là con đường dài lâu.

Nhà báo, nhà văn Lê Toán sinh năm 1951, nguyên TBT Báo Quảng Ninh từ tháng 1/2001-7/2022. Ông đã xuất bản nhiều tập truyện ngắn cho thiếu nhi như: San hô màu hạt lựu”; “Bầu trời vẩy tê tê”; “Trái đất thần tiên”; “Hoa mẫu đơn”; “Đến chơi nhà chú cuội”, “Trái đất tò he”, “Quẩy những trái đất về nhà”,“Tí hon canh bầu trời”...

Ông được coi là người viết truyện cho thiếu nhi và in với số lượng lớn nhất hiện nay ở Quảng Ninh.

Ngọc Ánh

Trình bày: Hùng Sơn

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu