Với 34 năm gắn bó với ruộng đồng, nữ kỹ sư Trần Thị Hồng đã dành trọn đam mê cho từng hạt lúa, mang đến những giống mới có năng suất, chất lượng cao.
Năm 1985, ở xóm mỏ Mạo Khê có một nhóm thanh niên rủ nhau theo học nghề nông nghiệp, trong đó có bà Trần Thị Hồng. Nhớ lại ngày ấy, bà Hồng chia sẻ: "Thời đó, các gia đình thợ mỏ đều khó khăn, bữa ăn chỉ toàn cơm gạo cũ trộn khoai sắn. Tôi ước có cơm gạo mới để ăn và nghĩ rằng nếu cách nào đó trồng được nhiều lúa gạo thì không chỉ có tôi, có con em thợ mỏ mà nhiều người khác sẽ có gạo mới để ăn. Vì vậy mà tôi nộp hồ sơ vào Trường Đại học Nông, Lâm để học, nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam".

Ra trường, bà Hồng về công tác tại Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh. Từ khi còn là kỹ sư, rồi là Giám đốc Công ty, tròn 34 năm cho đến khi nghỉ hưu (năm 2024), bà Hồng dành một đời tâm huyết gắn với cây lúa và phần lớn thời gian làm việc ngoài đồng ruộng. Năm 2024 bà Hồng vinh dự được nhận danh hiệu Nhà khoa học của nhà nông.
Bà luôn say mê, tích cực nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ để chọn tạo được những giống lúa mới, tốt, cho năng suất cao. Nhiều năm liền bà là chủ nhiệm đề tài khoa học cấp tỉnh về nhiệm vụ khảo nghiệm các giống lúa mới. Đồng thời là tác giả chính chọn tạo ra 14 giống lúa thuần được Bộ NN&PTNT công nhận và 17 giống lúa thuần mới được Bộ NN&PTNT cấp văn bằng bảo hộ giống cây trồng... Tiêu biểu như Khang dân 18, Q5, Hương thơm số 1, Kim cương 90, ĐT34, ĐT37, Nếp ĐT52, Hồng hương ĐT128, ĐT100, ĐT120… Riêng giống Nếp cái hoa vàng Đông Triều và Bao thai lùn đã trở thành sản phẩm OCOP chủ lực của tỉnh Quảng Ninh.
Nông dân toàn tỉnh hiện trồng hàng nghìn ha các giống lúa do bà Hồng nghiên cứu, chuyển giao, trong đó có 200ha giống lúa Nếp cái hoa vàng Đông Triều. Giống lúa do bà Hồng nghiên cứu, chuyển giao còn có mặt trên đồng đất của nhiều tỉnh, thành trong nước, năng suất so với giống tương đương tăng từ 10-15%, chất lượng, giá trị sản phẩm tăng từ 20-30%.
Bà Hồng chia sẻ: Nghiên cứu, khảo nghiệm, lựa chọn và tạo ra một giống lúa mất nhiều thời gian, công sức. Chúng tôi phải gieo cấy nhiều lần, nhiều vụ, rồi quan sát, ghi chép, phân tích, so sánh, đánh giá ưu nhược điểm về năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu thời tiết, sâu bệnh... Khi làm giống còn phải tính đến cả nhu cầu, thói quen, truyền thống của nông dân bản địa; địa chất, khí hậu mỗi khu vực. Nhiều khi quá trình làm giống như vậy là 4 năm, và gần như 4 năm ấy chúng tôi làm việc trên đồng ruộng.
Hiện đã đến tuổi nghỉ ngơi, bà Hồng vẫn đau đáu với cây lúa Quảng Ninh. Bà cho rằng: Trước thì các cụ bảo nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Giống chỉ xếp thứ 4 trong số các yếu tố cần thiết để tạo ra lúa gạo chất lượng. Nhưng ngày nay, khi mà 3 yếu tố ban đầu đều đã được chủ động đầu tư, hạ tầng sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh gần như đã hoàn thiện, thì giống trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất. Có giống tốt là có sản phẩm tốt. Càng là giống thuần thì lại càng tốt hơn, bởi với giống thuần chúng ta làm chủ được về công nghệ giống và phù hợp với tính bản địa, thay vì chỉ có thể ứng dụng sản xuất trong thời gian ngắn như là đối với giống lúa lai.
Từ suy nghĩ này, bà Hồng kỳ vọng những kỹ sư nông nghiệp trẻ tiếp tục dành tình yêu đối với cây lúa, duy trì và phát huy những giống lúa tốt của tỉnh; đồng thời nghiên cứu, cho ra những giống lúa ưu việt, đồng hành cùng nông dân, góp phần đưa kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát triển vươn lên.