Trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu đang tác động ngày càng rõ rệt đến mọi mặt của đời sống, việc chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường trở thành yêu cầu cấp thiết. Là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp, Quảng Ninh đang đứng trước cơ hội, cũng là thách thức để tiên phong phát triển mô hình khu công nghiệp (KCN) sinh thái, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn.

KCN sinh thái là mô hình phát triển công nghiệp mà ở đó các doanh nghiệp hợp tác với nhau để tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và năng lượng. Cụ thể, chất thải hoặc sản phẩm phụ của một doanh nghiệp có thể được tái sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp khác. Cách tiếp cận này không chỉ giúp giảm thiểu tác động môi trường mà còn gia tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra chuỗi giá trị cộng sinh. Mô hình này hiện không còn là điều mới mẻ trên thế giới. Từ những năm 1990, các quốc gia phát triển như Đan Mạch, Hàn Quốc, Nhật Bản đã triển khai thành công các khu công nghiệp sinh thái với hệ thống quản lý năng lượng - tài nguyên - chất thải hiệu quả, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững. Tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đã triển khai thí điểm tại 7 khu công nghiệp ở các tỉnh, thành như: Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ và đang nhân rộng mô hình ra các địa phương khác. Điểm chung là cả 7 KCN đưa vào thí điểm được thực hiện xây dựng mới theo tiêu chuẩn sinh thái ngay từ đầu.
Hiện nay, Quảng Ninh là một trong số ít địa phương trong cả nước sở hữu đồng thời cả 3 loại hình phát triển công nghiệp với 8 khu công nghiệp, 2 khu kinh tế ven biển và 3 khu kinh tế cửa khẩu. Trên địa bàn tỉnh đang có trên 300 dự án đầu tư ngoài ngân sách nhà nước còn hiệu lực, trong đó, khoảng 150 dự án nằm trong các khu công nghiệp, với nhiều tên tuổi lớn như: Autoliv (Thụy Điển), Amata (Thái Lan); Jinko, TCL, Texhong (Trung Quốc); Foxconn (Đài Loan); Bumjin (Hàn Quốc); Toray, Yazaky (Nhật Bản)...
Thế nhưng, đáng tiếc là hiện chưa có khu công nghiệp nào ở Quảng Ninh được phát triển theo mô hình sinh thái. Trong khi đó, tỉnh lại là một trong những địa phương đi đầu cả nước trong triển khai chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh với định hướng phát triển công nghiệp xanh, kinh tế carbon thấp, kiểm soát ô nhiễm và giảm phát thải nhà kính.
Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết, Quảng Ninh không chỉ cần tăng số lượng khu công nghiệp mà còn phải nâng cao chất lượng phát triển, chuyển hướng sang mô hình bền vững, xanh và thông minh hơn. Việc phát triển KCN sinh thái sẽ không chỉ giúp nâng cao sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư FDI, mà còn phù hợp với tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư hiện đại, những người ngày càng quan tâm đến trách nhiệm môi trường và xã hội.

Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Shinec (chủ đầu tư CCN phía đông Đầm Hà B) cho biết: Vừa qua, Công ty đã ra mắt hệ thống “Shinec Digital Green Economy”. Thông qua nền tảng “Shinec Digital Green Economy”, hệ thống sẽ thu thập dữ liệu phát thải carbon theo thời gian thực, phân tích các điểm nóng phát thải và tiêu thụ năng lượng, đến việc đề xuất các chiến lược cải thiện và giám sát hiệu quả. Với chiến lược đưa CCN phía đông Đầm Hà B trở thành CCN sinh thái nên mặc dù đang trong quá trình xây dựng, CCN đã thu hút được khoảng 70% nhà đầu tư thứ cấp. Trong quá trình chuyển đổi sang KCN sinh thái, chúng tôi nhận thấy đây không chỉ là thay đổi về mô hình sản xuất, mà còn là thay đổi toàn diện cách thức quản lý phát triển công nghiệp. Điều này đòi hỏi địa phương cần tăng cường giám sát môi trường, cải cách thủ tục hành chính để hỗ trợ nhà đầu tư.
Được biết, cùng với Công ty CP Shinec, hiện các chủ đầu tư hạ tầng KCN khác, như: Công ty CP KCN Bắc Tiền Phong (chủ đầu tư KCN Bắc Tiền Phong), Công ty CP KCN Tiền Phong (chủ đầu tư KCN Nam Tiền Phong) và Công ty CP Đô thị Amata Hạ Long (chủ đầu tư KCN Sông Khoai) đều mong muốn được áp dụng kinh nghiệm chuyển đổi sang KCN sinh thái.
Theo TS. Đỗ Diệu Hương (Viện Kinh tế Việt Nam): Từ kinh nghiệm các quốc gia đi trước cho thấy, thành công của mô hình này đến từ việc chính phủ xây dựng chiến lược rõ ràng, thực hiện phân kỳ chuyển đổi và có sự điều phối chặt chẽ giữa các bên liên quan: Cơ quan quản lý, doanh nghiệp, nhà đầu tư hạ tầng và cộng đồng. Ở cấp địa phương như Quảng Ninh, cần bắt đầu từ khâu rà soát, đánh giá từng KCN hiện có để xác định khả năng chuyển đổi phù hợp. Việc áp dụng "một khung chuẩn" cho tất cả các KCN là không hiệu quả, thay vào đó là giải pháp linh hoạt dựa trên đặc điểm, ngành nghề, và khả năng kết nối cộng sinh giữa các doanh nghiệp trong khu. Hệ thống thông tin minh bạch, đặc biệt về đầu vào, đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng và mức độ tiêu thụ tài nguyên, sẽ là điều kiện tiên quyết để kết nối các doanh nghiệp với nhau trong mô hình cộng sinh. Chẳng hạn, nếu một nhà máy sản xuất giấy có chất thải là bùn giấy, thì bùn này có thể được tái sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng hoặc phân bón nếu có doanh nghiệp phù hợp trong cùng khu công nghiệp.
Bên cạnh quy hoạch và điều phối, hỗ trợ tài chính đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu. Theo UNIDO và thực tế ở Hàn Quốc, các khoản tài trợ hoặc ưu đãi về thuế, chi phí nghiên cứu tiền khả thi… là yếu tố giúp doanh nghiệp mạnh dạn tham gia mô hình mới. Tuy nhiên, để mô hình này bền vững, lợi ích kinh tế phải là yếu tố cốt lõi tức doanh nghiệp cần thấy rõ chi phí, lợi ích rõ ràng và chủ động đầu tư.
Với định hướng rõ ràng, tiềm lực mạnh, tư duy phát triển tiên phong và nếu có những giải pháp mạnh mẽ, Quảng Ninh có đầy đủ điều kiện để trở thành địa phương dẫn đầu cả nước trong phát triển các khu công nghiệp sinh thái. Đây cũng là cơ hội để tỉnh khẳng định vai trò trung tâm công nghiệp xanh của vùng Đông Bắc, nơi mà lợi ích kinh tế không đánh đổi môi trường, mà luôn đi cùng sự phát triển hài hòa và bền vững.