80 năm trước, ngày 8/6/1945, chỉ 6 tháng sau khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) ra đời, ở Đông Triều, Đệ tứ chiến khu đã được thành lập. Đó là lực lượng vũ trang đầu tiên, tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Ninh, góp phần giải phóng Quảng Yên, tỉnh lỵ đầu tiên trong cả nước - một dấu ấn đặc sắc, đi đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Theo cuốn Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn tháng 6/1945, ở vùng miền Tây của tỉnh lúc này phong trào cách mạng đã vững vàng trên cả thế và lực, kẻ thù đã lâm vào tình trạng vô cùng khốn quẫn, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện.
Tại chùa Bắc Mã, cuối tháng 4/1945, các đồng chí Trần Cung, Hải Thanh, Nguyễn Bình đã họp bàn xây dựng kế hoạch khởi nghĩa, mở lớp huấn luyện cán bộ cơ sở và thành lập đội vũ trang đầu tiên. Đêm 6/6/1945, Ban lãnh đạo khởi nghĩa họp tại chùa Bắc Mã nhận định: Điều kiện chủ quan và khách quan đã đủ để phát động một cuộc khởi nghĩa ở vùng miền Tây. Ngày 8/6/1945, lực lượng vũ trang cùng với nhân dân sẽ đồng loạt nổi dậy đánh các đồn Đông Triều, Mạo Khê, Tràng Bạch và Chí Linh rồi thành lập Chiến khu Trần Hưng Đạo theo nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ ngày 15/4/1945. Lệnh khởi nghĩa được nhanh chóng truyền đi khắp vùng. Sáng sớm ngày 8/6/1945, tiếng súng khởi nghĩa đã nổ đồng loạt trên một tuyến dài 24km, dọc theo đường số 18.
Tại Đông Triều, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra hết sức nhanh gọn, vì ta gây được nhân mối trong đồn và đa số binh lính ở đây chịu ảnh hưởng của phong trào Việt Minh. Khi quân khởi nghĩa tiến vào đồn, tất cả binh lính đều xin theo cách mạng. Quân ta đã chiếm công đường huyện, nhà dây thép và các công sở khác một cách dễ dàng. Tại Mạo Khê, bọn chủ mỏ thực dân Pháp và bọn chỉ huy người Nhật đã nhanh chóng đầu hàng. Quân khởi nghĩa chiếm toàn bộ vũ khí của bọn lính bảo an, chiếm nhà máy chính, bến cảng, các đầu xe hỏa và các công sở của chính quyền thân Nhật. Tại Tràng Bạch, lực lượng vũ trang tập trung phối hợp với tự vệ công nhân mỏ đã táo bạo đóng giả lính Nhật tiến thẳng vào đồn, chiếm sở chỉ huy, kho vũ khí, lô cốt phòng thủ, bắt sống tên trưởng đồn và toàn bộ binh lính địch. Tại Chí Linh, nhờ thanh thế rất cao của Việt Minh, binh lính trong đồn đã nhất loạt mang vũ khí ra hàng. Như vậy, chỉ trong buổi sáng ngày 8/6/1945, quân khởi nghĩa và nhân dân các địa phương trên đã nổi dậy cùng một lúc tiêu diệt 4 đồn và xóa bỏ tất cả bộ máy chính quyền của địch, hoàn toàn làm chủ một vùng rộng lớn.
Chiều ngày 8/6/1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại làng Hổ Lao, xã Tân Việt, ta chính thức tuyên bố thành lập Chiến khu Trần Hưng Đạo và lập ra Uỷ ban quân sự cách mạng, gồm các đồng chí Nguyễn Bình, Trần Cung và Hải Thanh. Chiến khu Trần Hưng Đạo - hay còn gọi Chiến khu Đông Triều, Đệ tứ Chiến khu ra đời ở Đông Triều, đã thực sự là chỗ dựa chắc chắn và đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân vùng Đông Bắc đứng dậy chống Nhật, chuẩn bị tổng khởi nghĩa.

80 năm đã trôi qua, Đệ tứ Chiến khu anh hùng năm xưa giờ đã vươn mình đổi thay. Phát huy truyền thống cách mạng, Đông Triều đã có bước chuyển mình, vươn lên về mọi mặt, đạt được những kết quả tiêu biểu trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Nhiều công trình đã và đang làm đổi thay diện mạo đô thị như: Tuyến đường kết nối QL18A với đường ven sông, cầu Triều, dự án CCN Tràng An, dự án KCN Đông Triều, CCN Yên Thọ đang dần hình thành; các dự án sân gofl Đông Triều; dự án nhà máy nước giải khát và thực phẩm Thủy An Việt; tuyến đường nối ngã ba đường tránh Hưng Đạo đến khu đô thị Hồng Phong…
Tại Bảo tàng Quảng Ninh cũng như Nhà lưu niệm Chiến khu Đông Triều hiện nay còn lưu giữ một số tư liệu hình ảnh, hiện vật quý liên quan đến Đệ tứ Chiến khu. Về hình ảnh, có các bức ảnh về một số địa danh như đình Hổ Lao (xã Tân Việt) - nơi diễn ra cuộc mít tinh thành lập Chiến khu, cơ sở sản xuất vũ khí cung cấp cho Chiến khu, ảnh chân dung đồng chí Hải Thanh, Trần Cung, Nguyễn Bình và sư Tuệ - những người lãnh đạo đầu tiên của Chiến khu. Về hiện vật, có chiếc nồi tôn của một người phụ nữ tên là Cầu đã dùng để nấu cơm cho nghĩa quân Chiến khu; 1 con dao, 2 thanh kiếm và 1 khẩu súng trường mà nghĩa quân Đệ tứ Chiến khu đã dùng để đánh giặc; 1 chiếc cối tán thuốc súng, 3 vỏ lựu đạn, một chiếc khuôn mìn mà Xí nghiệp cơ khí Mạo Khê đã dùng để sản xuất mìn cho quân Đệ tứ Chiến khu; lá cờ búa liềm mà tướng Nguyễn Bình vẫn mang theo; nghiên mực mà đồng chí Võ Giác Nguyên, cán bộ lãnh đạo Chiến khu vẫn thường dùng...

Bảo tàng Quân khu 3 cũng đang trưng bày chiếc bàn bằng gỗ lim được cho là lãnh đạo Chiến khu thường dùng. Cùng với chiếc bàn này còn có mô hình phục dựng một buổi họp của Ban lãnh đạo Chiến khu. Tại nhà truyền thống của Công ty Than Mạo Khê còn lưu giữ hình ảnh chiếc máy tiện được công nhân mỏ sử dụng để sản xuất vũ khí cho Chiến khu; hình ảnh Nhà máy cơ khí Mạo Khê, nơi công nhân mỏ sản xuất vũ khí cho Chiến khu. Nhìn chung, mảng tư liệu hiện vật về Đệ tứ Chiến khu còn lại không nhiều nhưng cũng đã gợi ra những nét phác họa sinh động về cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở Vùng mỏ.